SKKN Rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật lý ở trường THPT Quảng Xương 4

SKKN Rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật lý ở trường THPT Quảng Xương 4

Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả những nhu cầu và thách thức của cuộc sống. Như chúng ta đã biết khoảng cách giữa nhận thức và hành động là rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp HS biến nhận thức thành hành động, nghĩa là HS không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểu rao giảng suông, dạy vẹt học vẹt không đạt được sự thay đổi hành vi này. Trong cách giáo dục mới, HS được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái chúng ta, có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến.

Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, đất nước ta không ngừng hoàn thiện, đổi mới và phát triển về mọi mặt. Trong xu thế đó, Đảng ta luôn khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xem việc đổi mới, nâng cao chất lượng trong giáo dục là yếu tố sống còn trong việc đào tạo, bồi dưỡng những con người giàu tri thức, năng động, sáng tạo đảm nhận vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Việc nâng cao chất lượng giáo dục phải được thực hiện gắn liền với việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới về phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng.

“ Phương pháp là sự vận động của nội dung”, nên cùng với sự phát triển của nội dung, phương pháp dạy học cũng đang được đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Luật giáo dục điều 28.2 nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh (HS); phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đòi hỏi phải tìm kiếm các PPDH mới và cải tạo các phương pháp cổ truyền cho phù hợp với nội dung hiện đại, theo hướng nâng cao tính tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực nội sinh của người học, đổi mới cách điều khiển quá trình dạy học và đưa công nghệ hiện đại vào n hà trường.

 

docx 31 trang thuychi01 5030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật lý ở trường THPT Quảng Xương 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 
Kỹ năng sống là năng lực tâm lý xã hội, giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả những nhu cầu và thách thức của cuộc sống. Như chúng ta đã biết khoảng cách giữa nhận thức và hành động là rất lớn. Giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp HS biến nhận thức thành hành động, nghĩa là HS không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểu rao giảng suông, dạy vẹt học vẹt không đạt được sự thay đổi hành vi này. Trong cách giáo dục mới, HS được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái chúng ta, có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến.
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, đất nước ta không ngừng hoàn thiện, đổi mới và phát triển về mọi mặt. Trong xu thế đó, Đảng ta luôn khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và xem việc đổi mới, nâng cao chất lượng trong giáo dục là yếu tố sống còn trong việc đào tạo, bồi dưỡng những con người giàu tri thức, năng động, sáng tạo đảm nhận vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục phải được thực hiện gắn liền với việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới về phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng. 
“ Phương pháp là sự vận động của nội dung”, nên cùng với sự phát triển của nội dung, phương pháp dạy học cũng đang được đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Luật giáo dục điều 28.2 nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh (HS); phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đòi hỏi phải tìm kiếm các PPDH mới và cải tạo các phương pháp cổ truyền cho phù hợp với nội dung hiện đại, theo hướng nâng cao tính tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực nội sinh của người học, đổi mới cách điều khiển quá trình dạy học và đưa công nghệ hiện đại vào n hà trường.
Những năm gần đây, qua quá trình giao lưu học hỏi, nghiên cứu và tiếp thu những thành tựu giáo dục ở các nước phát triển, chúng ta đã ghi nhận và thực hiện thành công nhiều phương pháp dạy học tích cực, hiện đại, mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học và quan trọng là phù hợp với tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay. Trong những phương pháp dạy học hiện đại đó không thể không kể đến PBL (Project Based Learning: dạy học theo dự án). 
PBL là một trong những PPDH hiện đại, chiếm một vị thế đáng kể trong các lớp học, đang phát triển chính thức thành một chiến lược dạy học ở những nước phát triển. So với các PPDH khác PBL vượt xa hơn trong việc tạo hứng thú, tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập của HS. PBL giúp HS có cơ hội phát triển những kỹ năng phức hợp như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề, hợp tác và giao tiếp. Với PBL, HS có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề lôi cuốn, phức tạp mang tính thách thức cao nhưng sát với thực tế đờisống. Tóm lại PBL góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho HS- một vấn đề mà toàn xã hội đang quan tâm.
Là một môn học quan trọng trong chương trình giáo dục THPT, Vật lý có vai trò to lớn trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông. Việc lựa chọn và vận dụng sáng tạo các PPDH tích cực theo hướng đổi mới vào quá trình dạy học môn Vật lý sẽ góp phẩn rèn luyện cho HS tư duy logic và tư duy biện chứng, hình thành ở họ niềm tin về bản chất khoa học của các hiện tượng tự nhiên, cũng như khả năng nhận thức của con người, khả năng vận dụng khoa học để đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống cũng như các yếu tố tích cực khác.
Với những lý do nêu trên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật lý ở trường THPT Quảng Xương 4”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Lồng ghép phương pháp dạy học theo tinh thần dạy học dự án vào bộ môn
Vật lý nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh THPT.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề ở mức độ sơ lược trong phạm vi sau:
- Cơ sở lí luận.
- Thực trạng của việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy môn Vật lý ở trường trung học phổ thông Quảng Xương 4.
- Giải pháp và cách thực hiện rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua dạy học theo tinh thần dạy học dự án môn Vật lý ở trường THPT Quảng Xương 4.
4. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức dạy học nhằm rèn luyện KNS cho HS.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình viết kinh nghiệm này tôi đã vận dụng các phương pháp sau :
	 PP điều tra: Điều tra việc giảng dạy - học tập ở một số tiết dạy môn Vật lý
	 PP đối chứng: So kết quả trước và sau khi dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ.
	 PP nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu có liên quan 
	 PP kiểm tra: Đưa một số bài tập yêu cầu học sinh làm để lấy kết quả.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
1.1. Khái niệm chung về kĩ năng sống.
Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi của cộng đồng. Kỹ năng sống có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các cá nhân trở thành người tích cực và có ích cho cộng đồng.
1.2. Khái niệm chung về dạy học dự án (PBL)
1.2.1. Lịch sử khái niệm
Theo sự giải thích của các nhà khoa học thì dạy học theo dự án có nguồn gốc từ khái niệm dự án trong lĩnh vực kinh tế, xã hội được đưa vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo và được sử dụng như một PP hay hình thức dạy học. Từ cuối thế kỷ XVI, ở Italia người ta đã sử dụng khái niệm dự án trong dạy học ở các trường dạy nghề kiến trúc, rồi tiếp đó là ở Pháp. Đến thế kỷ XVIII nhờ các ảnh hưởng của các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, tư tưởng của DHTDA đã lan truyền sang nhiều nước ở châu Âu và châu Mỹ, áp dụng dạy học trong một số trường đại học: Ở đó mỗi dự án đòi hỏi sinh viên phải được thực hiện một nhiệm vụ là thiết kế và gia công một sản phẩm kĩ thuật. Để làm được sinh viên phải phát huy tính tự lực cao, phải vận dụng tốt những kiến thức và kỹ năng đã được trang bị.
Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là “Project” theo gốc la tinh là “Projicere”, có nghĩa là phác thảo dự thảo hay thiết kế. Ngày nay khái niệm dự án được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, trong đó cần xác định rõ mục tiêu, thời gian, phương tiện tài chính, vật chất, nhân lực và cần được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội; trong sản xuất nông nghiệp, trong nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội
Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử dụng như một phương pháp hay hình thức dạy học.
Đầu thế kỷ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý luận cho phương pháp dự án và coi đó là PPDH quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học lấy HS là trung tâm, khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống coi GV là trung tâm. Ban đầu phương pháp dự án (PPDA) chỉ được vận dụng trong việc dạy thực hành ở các môn học kỹ thuật trong các trường đại học và cao đẳng, về sau PPDA được dung hầu hết các môn học, kể cả các môn khoa học xã hội.
Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, ngày nay phương pháp dạy học dựa trên dự án lại được chú ý vận dụng nhiều ở các nước có nền giáo dục phát triển như: Mỹ, Đức, Hà LanỞ nước ta dạy học dựa trên dự án đang được nghiên cứu vận dụng trong dạy học Đại học, Cao đẳng, Chuyên nghiệp cũng như các trường phổ thông.
1.2.2. Định nghĩa về dạy học dựa trên dự án
Dạy học dự án là một mô hình dạy học lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm. Kiểu dạy học này phát triển kiến thức và kĩ năng của học sinh thông qua quá trình học sinh giải quyết một bài tập tình huống gắn với thực tiễn bằng những kiến thức theo nội dung môn học - được gọi là dự án. Dự án đặt học sinh vào vai trò tích cực như: người giải quyết vấn đề, người ra quyết định, điều tra viên hay người viết báo cáo. Thường thì học sinh sẽ làm việc theo nhóm và hợp tác với các chuyên gia bên ngoài và cộng đồng để trả lời các câu hỏi và hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Học theo dự án đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của mình thông qua cả sản phẩm lẫn phương thức thực hiện.
1.3. Mục tiêu của DHTDA
So với các PPDH truyền thống, DHTDA chú trọng nhiều đến năng lực HS. Theo Apel H.J và Knoll M, mục tiêu của DHTDA nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, trang bị cho họ những năng lực để chuẩn bị bước vào cuộc sống, đồng thời góp phần đổi mới PPDH trong trường học. Tuy nhiên, năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức, được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. Vì vậy, DHTDA hướng tới ba mục tiêu cơ bản:
 + Về kiến thức: đạt được chuẩn chương trình hoặc có thể nhiều hơn;
 + Về kĩ năng: rèn luyện cho họ các kĩ năng như: tự lập kế hoạch, thực hiện DA, báo cáo và trình bày kết quả, ĐG DA,..; 
+ Về thái độ: rèn luyện ở học sinh tính tích cực, tự lực và trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; có ý thức vận dụng kiến thức vào thực tiễn; hòa đồng giúp đỡ nhau trong học tập.
1.4. Cấu trúc của PBL
PBL đặc trưng bởi một số hoạt động cơ bản sau:
- Xác định mục tiêu dự án
- Thiết kế ý tưởng dự án
- Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
- Lập kế hoạch dự án
- Làm việc theo nhóm
- Đánh giá dự án. 
1.5. Sự tương đồng giữa kỹ năng sống (KNS) và mục tiêu của DHDA
Kĩ năng sống cơ bản
Mục đích của DHDA
Lĩnh vực nhận thức
Tư duy phê phán
Phát triển năng lực đánh giá
Tư duy sáng tạo
Phát triển khả năng sáng tạo
Lĩnh vực tình cảm
Tự nhận thức
Kích thích động cơ và hứng thú học tập của người học
Thấu cảm
Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc
Tự trọng
Phát huy tính tích cực, tự lực
Trách nhiệm xã hội
Phát huy tính trách nhiệm
Lĩnh vực tâm vận động
Ra quyết định và giải quyết vấn đề
Rèn luyện năng lực phát hiện và xử lí những vấn đề phức hợp.
Phát triển năng lực lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch.
Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
Đương đầu với cảm xúc và căng thẳng
Rèn luyện tính bền bỉ và kiên nhẫn
Quan hệ liên nhân cách và giao tiếp
Phát triển năng lực giao tiếp và khả năng trình bày
Có thể thấy, phần lớn các KNS phù hợp với mục tiêu của DHDA, số còn lại tuy không giống nhau hoàn toàn nhưng cũng có sự tương đồng nhất định, chẳng hạn:
- Tự nhận thức là kĩ năng nhận biết và hiểu rõ bản thân mình (về tiềm năng, tình cảm, mặt mạnh, mặt yếu) DHDA sẽ kích thích động cơ, tạo hứng thú học tập cho HS, giúp họ tích cực huy động nhiều tiềm năng của bản thân như: Tư duy, thực hành, trình bày, giao tiếp... để giải quyết vấn đề học tập mang tính phức tạp, qua đó khám phá các ưu điểm và hạn chế của bản thân.
- Kỹ năng thấu cảm ( bày tỏ sự thông cảm bằng cách tự đặt mình vào vị trí của người khác và có sự hỗ trợ cần thiết đối với người đó) được rèn luyện qua hoạt động nhóm trong quá trình HS thực hiện dự án.
- Việc rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn trong DHDA cũng là một trong những phẩm chất tâm lý hỗ trợ tích cực cho con người đương đầu với thực tế mà họ có thể trải nghiệm trong cuộc sống.
- Khi lập kế hoạch và thực hiện dự án, HS cần đưa ra quyết định cho những hành động cụ thể nhằm đạt đến mục tiêu dự án, vì thế mà kỹ năng ra quyết định được hình thành và trải nghiệm
- Để đưa ra các quyết định phù hợp trong quá trình thực hiện dự án, HS phải phân tích một cách có phê phán cái đúng, cái hợp lí, cũng như cái sai, cái không hợp lí của thông tin, của quan điểm....nhằm lựa chọn những thông tin, quan điểm, cách giải quyết thích hợp nghĩa là tư duy phê phán được hình thành và phát triển.
Như vậy tích hợp DHDA trong dạy học Vật lý có thể góp phần giáo dục KNS cho HS
2. Thực trạng của vấn đề.
Qua nhiều năm giải dạy vật lý tại trường THPT tôi thấy khả năng vận dụng kiến thức vật lý vào thực tế cuộc sống còn rất hạn chế. Chẳng hạn: Sự vận dụng các kỹ năng như gặp tình huống: Đưa xe đạp vào nhà qua bậc tam cấp không tìm ra cách giải quyết các tình huống đó và để đưa xe vào với cách nhanh, khỏe hơn thông qua Mặt phẳng nghiêng; Chỉ một mình không di chuyển được khúc củi đi xa mà không nghĩ ra là dùng đòn bẩy.v.v. các em thường gặp khó khăn, trả lời ấp úng và có rất nhiều tình huống khác mà các em cần được rèn luyện kỹ năng đưa ra tình huống để giải quyết vấn đề nhanh và có lợi cho cuộc sống sau này. Từ những vấn đề cần giải quyết thì có khả năng rèn luyện được kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định và một số kỹ năng khác nữa. Như vậy, làm thế nào để giải quyết vấn đề đặt ra bức thiết đó thì bản thân tôi đã có những suy nghĩ về các phương pháp dạy học vật lý để có thể giúp học sinh giải quyết hiệu qủa bài học. Dù là ít nhưng từ một số bài học này học sinh có thể ứng dụng tự tìm ra cho mình kỹ năng khác thông bài học khác nữa. 
Ở Việt Nam giáo dục KNS đã được đưa vào các trường học, song còn hạn chế chưa thể hiện rõ, cách tổ chức còn nặng nề về cung cấp thông tin, chưa chú trọng thỏa đáng vào việc đặt người học vào những tình huống được trải nghiệm, được lựa chọn và ra quyết định để hình thành và thay đổi hành vi mang tính tích cực
Trong chương trình THPT, Công nghệ và Giáo dục công dân là hai môn có nhiều tiềm năng để tích hợp KNS. Tuy nhiên theo tôi với những đặc thù của mình môn Vật lý cũng có thể góp phần rèn luyện KNS cho HS bằng cách vận dụng dạy học dự án (DHDA).
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
3.1. Tìm ý tưởng dự án.
	Từ nội dung bài học, GV suy nghĩ về ý tưởng của DA: như các ứng dụng của Vật lí vào kĩ thuật và sản xuất, những vấn đề đang được thế giới quan tâm (ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, khủng khoảng năng lượng,). Riêng các nội dung lí thuyết mà chương trình buộc phải dạy theo cách truyền thống không thích hợp cho DHTDA.
3.2. Xác định mục tiêu dự án
	 Sau khi hình thành ý tưởng, GV xác định mục tiêu DA, bao gồm: mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ, trong đó chú ý đến các hoạt động học tập với tư duy bậc cao như phân tích, tổng hợp, ĐG.
Mỗi dự án học tập luôn hướng đến một mục tiêu cụ thể. Để xác định được mục tiêu dự án, (GV) phải căn cứ vào chương trình học, sách giáo khoa, giáo trình, các mục tiêu giáo dục của địa phương cùng với phương hướng hoạt động của Nhà trường, của lớp họcTừ mục tiêu học tập định ra các tiêu chuẩn học tập bao gồm tiêu chuẩn nội dung và tiêu chuẩn thực hành. Trên cơ sở đó GV có thể xác lập mục tiêu dự án.
3.3.Thiết kế ý tưởng dự án
Một dự án có tính khả thi thường bắt nguồn từ một ý tưởng tốt. Các hoạt động học tập trong PBL được thiết kế mang tính thiết thực, liên quan đến nhiều lĩnh vực kiến thức, lấy người học làm trung tâm và gắn kiến thức nhà trường với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Vì vậy GV cần nhìn thấy những vấn đề trong cuộc sống xung quanh, nhất là các vấn đề có tính thời đại.
Xuất phát từ nội dung bài học, GV đưa ra một chủ đề với những gợi ý hấp dẫn, thực sự có thể lôi cuốn HS, kích thích HS hứng thú tham gia thực hiện thông qua các hoạt động học tập như:
- Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Những dự án này thường gắn liền với cộng đồng địa phương và HS có thể áp dụng bài học trong lớp học vào tình huống thực tế. Ví dụ, tạo những vật dụng hay đồ chơi từ các vật liệu phế thải cho các em nhỏ trong “Mái ấm tình thương”.
- Mô phỏng và đóng vai: Những dự án này được thiết kế nhằm cung cấp cho HS một kinh nghiệm thực tế đầu tay. HS sẽ vào vai một người khác, sống trong một tình huống mô phỏng tái tạo lại thời gian và không gian nhất định. Mô phỏng và đóng vai là cách rất hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại nhiều hiệu quả hay tạo được sự thấu cảm tốt. Ví dụ, để nâng cao ý thức về “An toàn giao thông”, HS hóa thân vào một vở kịch hay xây dựng một video clip với nội dung nói về hậu quả của một tai nạn giao thông. 
- Xây dựng và thiết kế: Những dự án này dựa trên nhu cầu thực tế hay có thể được tạo nên bởi chuỗi sự kiện đáng tin cậy. Các dự án này đòi hỏi HS phải xây dựng được mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế. Ví dụ, chế tạo tên lửa nước. 
- Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực tuyến với các lớp khác, các chuyên gia hay cả cộng đồng.
- Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hướng trong đó một số hay tất cả các thông tin mà người học sử dụng được lấy từ nguồn Internet. Các dự án này được thiết kế nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức.
Dự án là một bài tập tình huống mà HS phải giải quyết bằng các kiến thức theo nội dung bài học, đặt HS vào tình huống có vấn đề nhưng việc giải quyết vấn đề đòi hỏi tính tự lực cao ở HS.
3.3. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng (Bộ câu hỏi khung) 
	Bước quan trọng nhất của việc thiết kế DA là xây dựng bộ câu hỏi định hướng. Nó giúp HS tập trung vào những hoạt động học tập chủ yếu. Thông qua những câu hỏi gợi ý, có tính mở, buộc HS phải tư duy về những vấn đề cần phải giải quyết. Có 3 dạng câu hỏi định hướng: câu hỏi khái quát (CHKQ), câu hỏi bài học (CHBH), câu hỏi nội dung (CHND).
a. Thế nào là bộ câu hỏi định hướng?
Bộ câu hỏi định hướng là một hệ thống những câu hỏi do GV đưa ra nhằm mục đích định hướng cho dạy học một nhóm kiến thức thuộc một số bài học. 
b. Vai trò của bộ câu hỏi định hướng
Trong PBL không thể thiếu bộ câu hỏi định hướng, nó có vai trò rất quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của HS. Thay cho việc thuyết trình, đọc, chép, nhồi nhét kiến thức, GV chuẩn bị bộ câu hỏi này sao cho gây được sự hứng thú ở HS, buộc HS suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích HS động não tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng, nội dung trọng tâm của bài học theo một trật tự lôgic. 
Bộ câu hỏi định hướng còn nhằm định hướng, dẫn dắt cho HS từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết, qua đó HS có được niềm vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong phần nhận xét của thầy cô có phần đóng góp ý kiến của mình. Kết quả, HS lĩnh hội được kiến thức mới, biết cách đi đến kiến thức mới, qua đó tư duy được phát triển hơn.
c. Cấu trúc bộ câu hỏi định hướng: Bộ câu hỏi định hướng bao gồm câu
hỏi khái quát, Câu hỏi BH và Câu hỏi ND.
* Câu hỏi khái quát: Câu hỏi khái quát là câu hỏi mở, bao quát được các nhiệm vụ học tập quan trọng, kéo dài suốt chương trình. Câu hỏi khái quát có thể được sử dụng để liên kết nhiều bài học, nhiều môn học hay nhiều chủ đề. Với câu hỏi khái quát, có nhiều hơn một câu trả lời đúng duy nhất, do đó đòi hỏi HS phải tư duy bậc cao. Thông thường câu hỏi khái quát phải gắn với nhu cầu có thực trong thực tế cuộc sống, sở thích của HS và gây được sự tò mò, sự hứng thú muốn khám phá ở HS.
* Câu hỏi BH: Câu hỏi BH cũng là câu hỏi mở nhưng hướng HS đi vào trọng tâm một bài học, một chủ đề cụ thể. Câu hỏi BH đòi hỏi phải đủ rộng để bao quát hầu hết các chủ đề của bài học, giúp HS tự khám phá và thể hiện những hiểu biết của mình quanh các vấn đề cốt lõi của dự án một cách sáng tạo, độc đáo, duy trì sự hứng thú ở HS. Với Câu hỏi BH có nhiều hơn một câu trả lời đúng duy nhất nên cũng đòi hỏi HS phải tư duy bậc cao. Câu hỏi BH hỗ trợ việc nghiên cứu câu hỏi khái quát.
* Câu hỏi ND: Câu hỏi ND là những câu hỏi cụ thể, trọng tâm, tập trung trực tiếp vào các chuẩn kiến thức và mục tiêu học tập; là câu hỏi hỗ trợ cho các câu hỏi khái quát và Câu 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_ren_luyen_ky_nang_song_cho_hs_thong_qua_day_hoc_theo_ti.docx
  • docbìa.doc