SKKN Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học Vật Lý 10

SKKN Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học Vật Lý 10

Đất nước ta đang đặt ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục là phải đào tạo cho được nguồn nhân lực dồi dào có đủ trình độ, năng lực, lao động sáng tạo, tay nghề cao, biết ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phải giỏi về lý thuyết và thạo về thực hành. Để làm được điều đó, bản thân mỗi thầy cô giáo phải thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với môn học, phù hợp với trình độ học sinh nhằm đào tạo ra nhiều học sinh thực sự có năng lực, đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện đại. Tâm lý con người nói chung, học sinh nói riêng đều thích khám phá cái mới hơn những điều mình đã biết, do đó dạy học có hiệu quả phải biết phát triển tư duy sáng tạo và hứng thú cho học sinh.

 Vật Lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học Vật Lý ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc, mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những tác dụng của thí nghiệm Vật Lý là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong dạy học Vật Lý còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thí nghiệm Vật Lý hiểu theo nghĩa rộng còn là một trong những phương pháp dạy học Vật Lý ở trường phổ thông. Đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thêm vào đó, thí nghiệm còn có tác dụng giúp cho việc dạy học Vật Lý tránh được tính chất giáo điều, hình thức đang phổ biến trong dạy học hiện nay. Ngoài ra, thí nghiệm Vật Lý còn góp phần giúp cho học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh.

 

doc 21 trang thuychi01 11951
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học Vật Lý 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU..
 1. Lý do chọn đề tài.
 2. Mục đích nghiên cứu .
 3. Đối tượng nghiên cứu.
 4. Phương pháp nghiên cứu...
II. NỘI DUNG
 1. Cơ sở lý luận của SKKN..
 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN .
 3. Các SKKN hoặc giải pháp đã sử dụng để giả quyết vấn đề....
 4. Hiệu quả của SKKN..
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..
2
2
3
3
3
4
5
5
19
20
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
	Đất nước ta đang đặt ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục là phải đào tạo cho được nguồn nhân lực dồi dào có đủ trình độ, năng lực, lao động sáng tạo, tay nghề cao, biết ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phải giỏi về lý thuyết và thạo về thực hành. Để làm được điều đó, bản thân mỗi thầy cô giáo phải thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với môn học, phù hợp với trình độ học sinh nhằm đào tạo ra nhiều học sinh thực sự có năng lực, đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện đại. Tâm lý con người nói chung, học sinh nói riêng đều thích khám phá cái mới hơn những điều mình đã biết, do đó dạy học có hiệu quả phải biết phát triển tư duy sáng tạo và hứng thú cho học sinh.
 	Vật Lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học Vật Lý ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc, mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những tác dụng của thí nghiệm Vật Lý là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong dạy học Vật Lý còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thí nghiệm Vật Lý hiểu theo nghĩa rộng còn là một trong những phương pháp dạy học Vật Lý ở trường phổ thông. Đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thêm vào đó, thí nghiệm còn có tác dụng giúp cho việc dạy học Vật Lý tránh được tính chất giáo điều, hình thức đang phổ biến trong dạy học hiện nay. Ngoài ra, thí nghiệm Vật Lý còn góp phần giúp cho học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh.
	Lâu nay, việc sử dụng các bộ thí nghiệm trong dạy và học Vật lí ở các trường THPT nói chung và ở trường THPT Cẩm Thủy 1 nói riêng là hoạt động thường xuyên của mỗi giáo viên dạy Vật Lý. Song để khai thác tốt các tiện ích, công năng của các bộ thí nghiệm này trong việc xây dựng phương án dạy học mỗi bài học Vật Lý cụ thể để từ đó góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học bộ môn thì không nhiều người làm được, không thường xuyên làm được. Sở dĩ có thực trạng trên, theo tôi là do một số nguyên nhân sau:
	- Thiết bị đang thiếu nhiều, những thiết bị đã có thì hỏng rất nhiều có thiết bị thì hỏng một phần hoặc hỏng toàn phần.
	- Một phần khác không kém phần quan trọng chính là ở đội ngũ giáo viên, chúng ta chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu sử dụng, để các thí nghiệm Vật Lý, các phương tiện dạy học hiện đại thực sự mang lại hiệu quả.
	- Ngoài ra, cũng cần phải thừa nhận rằng, khả năng sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại cũng như thao tác thí nghiệm của một bộ phận giáo viên hiện nay nói chung còn hạn chế.           
	- Các bộ thí nghiệm chỉ thường được dùng trong các giờ thực hành của học sinh. Đa số thí nghiệm chỉ dùng được một cách định tính, thậm chí nhiều dụng cụ không còn sử dụng được và giáo viên chỉ giới thiệu cho học sinh là có dụng cụ như thế và hướng dẫn học sinh cách thí nghiệm.
	- Trong các giờ dạy bài mới, một số giáo viên cũng có ý thức sử dụng thí nghiệm nhưng việc dùng thí nghiệm thường chỉ với ý nghĩa minh họa cho kiến thức (làm tăng tính trực quan) mà ít dùng để khảo sát việc xây dựng từng đơn vị kiến thức của bài học.
	- Việc dùng thí nghiệm trong dạy học thường theo ý chủ quan của mỗi giáo viên. Học sinh không biết là thầy (cô) đang dùng thí nghiệm để làm gì, thầy (cô) sẽ dẫn dắt học sinh đi đến đâu. Tức là học học sinh không được tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của bài học để từ đó rèn luyện tư duy logic và óc sáng tạo, học sinh chỉ là người quan sát và nghe.
	- Việc dùng thí nghiệm không được kết hợp với sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học tích cực như ‘‘Phương pháp dạy học nêu vấn đề’’; ‘‘Hình thức tổ chức hoạt động nhóm’’,
	Để giải quyết vấn đề trên, trong giảng dạy đòi hỏi ở giáo viên phải có khả năng sử dụng tốt thí nghiệm Vật Lý và vận dụng nó một cách có hiệu quả để tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức của bài học một cách tốt nhất. 
	Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Vật Lý, với mong muốn nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục của địa phương, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm năm học này là: “Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học Vật Lý 10 ”.
2. Mục đích nghiên cứu: 
	Mục tiêu của xã hội đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần giải quyết đó là đào tạo cho được nguồn nhân lực dồi dào có đủ trình độ, năng lực, lao động sáng tạo, tay nghề cao, biết ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, phải giỏi về lý thuyết và thạo về thực hành. Để thực hiện mục tiêu đó dòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học một cách phù hợp. Đối với giáo viên dạy môn Vật Lý thì việc sử dụng Thí nghiệm Vật Lý sẽ giúp cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. SKKN: “Phương pháp sử dụng có hiệu quả thí nghiệm Vật Lý trong dạy học Vật Lý 10 ” sẽ giải quyết vấn đề này.
3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 10A1, 10A2, 10A5, 10A9, 10A10 trường THPT Cẩm Thủy 1.
4. Phương pháp nghiên cứu: 
	- Phương pháp quan sát: Quan sát thức tế, thực trạng về sử dụng thiết bị Vật Lý, quá trình học tập và chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Vật Lý.
	- Phương pháp thu thâp thông tin: Nghiên cứu sách báo, giáo trình, internet có liên quan đến các thí nghiệm Vật Lý...
	- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của SKKN:
	Theo quan điểm lý luận dạy học: thí nghiệm vật lý đóng vao trò cực kỳ quan trọng trong dạy học, nó thể hiện ở các mặt sau:
	- Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy học như đề xuất vấn đề nghiên cứu, giải quyết vấn đề (hình thành kiến thức, kĩ năng mới...), củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, kĩ xảo của học sinh.
	- Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh: Trước hết, thí nghiệm là phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo Vật Lý cho học sinh. Nhờ thí nghiệm học sinh có thể hiểu sâu hơn bản chất vật lý của các hiện tượng, định luật, quá trình... được nghiên cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn. Truyền thụ cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động dạy học. Để làm được điều đó, giáo viên cần nhận thức rõ việc xây dựng cho học sinh một tiềm lực, một bản lĩnh, thể hiện trong cách suy nghĩ, thao tác tư duy và làm việc để họ tiếp cận với các vấn đề của thực tiễn. Thông qua thí nghiệm, bản thân học sinh cần phải tư duy cao mới có thể khám phá ra được những điều cần nghiên cứu. Thực tế cho thấy, trong dạy học Vật Lý, đối với các bài giảng có sử dụng thí nghiệm, thì học sinh lĩnh hội kiến thức rộng hơn và nhanh hơn, học sinh quan sát và đưa ra những dự đoán, những ý tưởng mới, nhờ đó hoạt động nhận thức của học sinh sẽ được tích cực và tư duy của các em sẽ được phát triển tốt hơn.
	- Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh: Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh có cơ hội trong việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh. Thí nghiệm còn là điều kiện để học sinh rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới, như: đức tính cẩn thận, kiên trì, trung thực... Xét trên phương diện thao tác kĩ thuật, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của thí nghiệm đối với việc rèn luyện sự khéo léo tay chân của học sinh.
	- Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh: thí nghiện là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá trình nhận thức.
	- Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh: thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể qua đó góp phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của học sinh. Qua thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải làm việc tự lực hoặc phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát huy vai trò cá nhân hoặc tính cộng đồng trách nhiệm trong công việc của các em.
	 - Thí nghiệm vật lý góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá trình vật lý: thí nghiệm vật lý góp phần đơn giản hoá hiện tượng, tạo trực quan sinh động nhằm hỗ trợ cho tư duy trừu tượng của học sinh, giúp cho học sinh tư duy trên những đối tượng cụ thể, những hiện tượng và quá trình đang diễn ra trước mắt họ. 
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 
	Trường THPT Cẩm Thủy 1 là một trường thuộc huyện miền núi trong tỉnh Thanh Hóa, đời sống còn nhiều khó khăn, chất lượng tuyển sinh vào lớp 10 còn thấp. Trong các lớp tôi phụ trách giảng dạy môn Vật Lý tỷ lệ học sinh Khá, Giỏi thấp. Nhiều học sinh không có hứng thú đối với môn học này vì quan niệm rằng đây là một môn học khó, cần phải có tư duy trừu tượng thì mới có thể học tốt. Vì thế khi dạy, nếu không sử dụng thí nghiệm Vật Lý mà dạy chay hoặc sử dụng không hiệu quả thì sẽ không có tính thuyết phục, học sinh tiếp thu bài một cách thụ động và dễ mang lại cảm giác nhàm chán.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
 Để sử dụng thí nghiệm Vật Lý một cách có hiệu quả trong các giờ học tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau đây:
	3.1. Giáo viên cần nắm được mục đích việc sử dụng thiết bị dạy học là gì?
	Sử dụng thiết bị dạy học cho thí nghiệm vật lý có hiệu quả chính là việc làm sống lại trước mắt học sinh các hiện tượng vật lý cần nghiên cứu một cách sinh động. Từ đó học sinh có hứng thú say mê nghiên cứu khoa học, thích khám phá tìm tòi để dẫn đến hình thành khái niệm và giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới sâu sắc hơn, bền vững hơn. 
	3.2. Yêu cầu về sự chuẩn bị của giáo viên:
	- Xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt trong bài, từ đó giáo viên xây dựng mục tiêu cụ thể cần đạt trong tiết dạy là gì?.
	- Đọc nội dung bài dạy trong chương trình sách giáo khoa, xác định kiến thức, kĩ năng cần đạt của từng phần để nắm được mục tiêu của thí nghiệm phần đó là gì, giáo viên biểu diễn thí nghiệm hay học sinh tự tiến hành thí nghiệm, từ đó kết hợp với người phụ trách thiết bị chuẩn bị đầy đủ thiết bị phù hợp cho tiết học. 
	- Giáo viên phải làm trước các thí nghiệm đó (đây là bước bắt buộc) để xem mức độ thành công của từng thí nghiệm từ đó điều chỉnh kịp thời (nếu cần) đảm bảo thí nghiệm phải chắc chắn thành công, có như vậy mới đem lại cho học sinh niềm tin vào khoa học. 
	3.3. Giáo viên cần nắm được thiết bị dạy học Vật lý ở trường THPT chủ yếu dùng cho hai loại bài đó là: Thiết bị dùng cho bài dạy các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm thực hành của học sinh hoặc cả hai.
 a) Đối với thí nghiệm biểu diễn:
	Trước hết giáo viên phải nắm bắt được cấu trúc của thí nghiệm biểu diễn gồm: 
	- TN đặt vấn đề
 - TN chứng minh
 - TN kiểm chứng (củng cố)
	Nên trước khi vào bài dạy: Giáo viên cần dùng các thiết bị thí nghiệm đã chuẩn bị và dựa vào mục tiêu của bài dạy mà đưa ra thí nghiệm đặt vấn đề để gây hứng thú học tập cho học sinh cả lớp. Sau đây là một ví dụ:
Trong bài: ''Các định luật Newton'', trước khi đưa ra định luật giáo viên làm thí nghiệm với lực kế và một chiếc xe có khối lượng khác nhau:
+ Khi xe đứng yên trên sàn nhà rất nhẵn, ta đẩy hoặc kéo xe về hướng nào thì xe chuyển động nhanh dần về hướng đó. HS rút ra kết luận: vectơ lực và vectơ gia tốc có cùng hướng với nhau.
+ Ta đẩy xe càng mạnh thì xe tăng tốc càng nhanh. Ta vẫn đẩy mạnh như lúc trước, nhưng nếu khối lượng của xe lớn hơn thì xe tăng tốc ít hơn. HS rút ra kết luận: gia tốc của vật không chỉ phụ thuộc vào lực tác dụng lên vật mà còn phụ thuộc vào khối lượng của chính vật đó.
+ Từ đó giáo viên đưa ra định luật 2 Newton và nêu các yếu tố của vectơ lực.
 Nhìn chung với tất cả các thí nghiệm: Đặt vấn đề, thí nghiệm kiểm chứng, thí nghiệm chứng minh. Để tiến hành thí nghiệm đạt được hiệu quả cao giáo viên phải tiến hành theo những bước sau:
Bước 1: Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
	Mỗi nhóm nên có đủ các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu kém và số thành viên trong các nhóm không được quá nhiều nhằm tạo điều kiện cho các em có thời gian tranh luận với nhau về kết quả thí nghiệm.
Bước 2: Xác định mục tiêu của thí nghiệm.
	- Với các thí nghiệm đơn giản giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa sau đó các em thảo luận và nêu ra mục tiêu của thí nghiệm đó song giáo viên nhấn mạnh lại.
	- Nếu các thí nghiệm khó và phức tạp thì giáo viên nên chia thành nhiều bước nhỏ và nêu mục tiêu của từng bước trong thí nghiệm.
 Lưu ý: Giáo viên cần phải xác định đúng và đủ mục tiêu của thí nghiệm vì nó có liên quan trực tiếp đến nội dung của bài học.
Bước 3: Giới thiệu dụng cụ và cách tiến hành thí nghiệm:
	- Phần giới thiệu dụng cụ thí nghiệm:
 Yêu cầu giáo viên cần giới thiệu đầy đủ thông tin về các dụng cụ có trong thí nghiệm. Cụ thể là: Tên gọi, đặc điểm mềm, dẻo, đàn hồi, chịu nhiệt, chịu lực... nhằm giúp các em hiểu được tác dụng của mỗi đồ dùng và sử dụng các thiết bị trên được hiệu quả và an toàn.
	- Đối với phần cách tiến hành thí nghiệm: Giáo viên phải nêu rõ từng bước của thí nghiệm để học sinh tiện quan sát và thực hành, nhưng đôi khi với một số thí nghiệm đơn giản thì có thể cho học sinh đọc cách tiến hành thí nghiệm trong sách giáo khoa sau đó thảo luận nêu lên cách tiến hành thí nghiệm. Cuối cùng giáo viên nhấn mạnh cách tiến hành thí nghiệm trước khi cho học sinh thực hành.
Bước 4: Cách bố trí thí nghiệm
	- Nếu các thiết bị của phòng thí nghiệm của trường mà phù hợp với thiết bị nêu ra trong sách giáo khoa thì giáo viên có thể tiến hành theo phương án của sách giáo khoa.
	- Nếu các thiết bị trong phòng thí nghiệm không có hoặc còn thiếu so với các đồ dùng bố trí ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể thay thế bằng các thí nghiệm ảo, sử dụng công nghệ thông tin để học sinh quan sát, tuy nhiên cách làm này chỉ có hiệu quả nhất định với các thí nghiệm biểu diễn.
Bước 5: Tiến hành thí nghiệm.
	- Trước khi bắt tay vào làm thí nghiệm giáo viên phát cho các nhóm phiếu học tập để các em ghi lại các hiện tượng, số liệu, kết quả mà các em quan sát được qua thí nghiệm đó nhằm giúp cho quá trình thảo luận nhóm và từ đó xử lí kết quả thí nghiệm được tốt hơn.
	- Giáo viên thao tác khi tiến hành thí nghiệm phải thật rõ ràng, không lúng túng để học sinh tiện theo dõi.
	- Để đạt được hiệu quả cao, trong khi tiến hành thí nghiệm giáo viên có thể đặt các câu hỏi khắc sâu về các tình huống trong thí nghiệm nhằm tạo cho học sinh những tình huống có vấn đề để các em cùng suy nghĩ tháo gỡ từ đó các em hiểu sâu hơn về thí nghiệm đang làm.
	- Tùy theo từng bài mà giáo viên có thể nêu thêm thí nghiệm thay thế hoặc cho học sinh tự nghĩ ra thí nghiệm thay thế khác để cho bài học phong phú đa dạng nhằm phát triển được vốn hiểu biết của học sinh. Nhưng các thí nghiệm thay thế đó đòi hỏi phải đảm bảo đúng và chính xác mục tiêu của thí nghiệm.
	- Với các thí nghiệm thay thế giáo viên có thể hỏi học sinh tại sao thí nghiệm này có thể thay thế được? Nhằm khắc sâu hơn cho các em về tính chặt chẽ, đúng đắn của thí nghiệm thay thế đó.
	- Nếu cần thì trên các dụng cụ phải có các vật chỉ thị để làm nổi bật lên các bộ phận đặc biệt cần quan sát hoặc dùng các vật, chất khác hỗ trợ cho vấn đề cần nghiên cứu.
* Lưu ý: + Chỉ bày ra trước mắt học sinh những dụng cụ cần thiết để minh họa hoặc làm thí nghiệm, không được bày la liệt trước mắt học sinh những dụng cụ đã dùng xong hoặc chưa dùng tới nhằm tránh trường hợp học sinh không tập trung vào thí nghiệm của giáo viên.
+ Các thiết bị dùng để tiến hành trong bài yêu cầu cần phải được kiểm tra và làm trước để đảm bảo giờ thực hành thành công và gây được niềm tin vào khoa học ở học sinh.
+ Khi các thí nghiệm xảy ra nhanh giáo viên cần lặp lại thí nghiệm để học sinh có thể theo dõi được.
 Ví dụ như: Trong bài ''Sự rơi tự do'' khi làm thí nghiệm biểu diễn sự rơi của vật, quá trình rơi của vật diễn ra rất nhanh, vì thế giáo viên cần lặp lại nhiều lần để học sinh tiện quan sát và rút ra kết luận.
Bước 6: Xử lí các hiện tượng và kết quả thí nghiệm. 
	Sau khi tiến hành thí nghiệm xong giáo viên treo bảng phụ để cho các nhóm lần lượt báo cáo hiện tượng hoặc kết quả thí nghiệm mà học sinh thu thập được qua thí nghiệm của giáo viên. Sau đó dựa vào bảng kết quả của giáo viên, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.
	Trong phần này nếu kết quả thí nghiệm có sự sai số nhỏ thì giáo viên phải giải thích thật rõ cho các em để gây được niềm tin của học sinh vào thí nghiệm .
	Có thể đưa ra một số gợi ý về việc giải thích kết quả thí nghiệm có sự sai số trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên cho học sinh như sau:
	+ Giáo viên phải nắm chắc bản chất của hiện tượng trong thí nghiệm để dựa vào đó mà giải thích vấn đề.
	+ Có thể giải thích kết quả thí nghiệm có sai số là do cách đặt mắt quan sát đọc kết quả và các thiết bị đo chỉ mang tính chất tương đối đó cũng là nguyên nhân thường hay gặp ở các thí nghiệm.
	+ Có thể là do các thiết bị thí nghiệm lâu không dùng đến dẫn đến các tính chất lý, hóa của nó bị ảnh hưởng.
Bước 7: Kết luận.
	Giáo viên gọi 2 đến 3 học sinh đọc lại nội dung kết luận vừa tìm ra ở trên. Giáo viên nhấn mạnh lại kết luận đó và có thể cho học sinh liên hệ thực tế các vấn đề có liên quan đến thí nghiệm vừa là để khắc sâu kết luận mới tìm được, vừa là làm cho bài dạy thêm sinh động.
 b) Đối với loại bài trong đó có thí nghiệm thực hành của học sinh:
 Để dạy tốt được loại bài này thì trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào là thí nghiệm thực hành của học sinh, cách tổ chức như thế nào và tác dụng của nó ra sao?
	- Thí nghiệm thực hành: Là thí nghiệm do học sinh tiến hành dưới sự chỉ dẫn của giáo viên để từ đó các em tự khám phá kiến thức của bài và nắm bắt kiến thức bài đó.
	- Thí nghiệm thực hành có tác dụng: Giúp học sinh nắm vững hơn nội dung bài học vì học sinh được tự tay gây ra hiện tượng vật lý, đo lường các đại lượng, tìm ra quy luật, hiện tượng hoặc kiểm tra lại định luật, hiện tượng, do đó học sinh sẽ chú ý hơn, tin tưởng hơn và hiểu vấn đề một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
	- Thí nghiệm thực hành rèn luyện cho học sinh kỹ năng, kỹ xảo sử dụng những dụng cụ đo lường cơ bản như thước, cân, lực kế, ampe kế, vôn kế... do đó có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp đối với học sinh.
	- Thí nghiệm thực hành tạo điều kiện cho học sinh tự lực quan sát, phân tích, phán đoán để đi đến kết luận, do đó có tác dụng lớn trong việc phát triển năng lực tư duy của học sinh và giúp các em làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học vật lý.
	- Thí nghiệm thực hành còn kích thích ở học sinh tính tò mò khoa học, ham học vật lý, mong muốn vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống và rèn luyện cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo vệ của công.
	Vì thí nghiệm thực hành có tác dụng rất lớn như đã phân tích ở trên nên với giáo viên dạy vật lý để tổ chức thành công được loại bài này thông qua các thiết bị dạy học thì cần phải thực hiện các công việc sau:
	- Việc chuẩn bị cho bài dạy: Trước hết giáo viên phải đọc trước nội dung bài dạy xác định được đúng và đủ mục tiêu của bài học. Từ đó kết hợp với người phụ trách thiết bị lập ra kế hoạch về số lượng các thiết bị để dùng cho bài học được tốt và cũng như các thí nghiệm biểu diễn của giáo viên thì

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_su_dung_co_hieu_qua_thi_nghiem_vat_ly_trong.doc
  • docBìa SKKN.doc