SKKN Phương pháp đọc- Hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà” theo đặc trưng thể loại

SKKN Phương pháp đọc- Hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà” theo đặc trưng thể loại

Xuất phát từ thực tiễn đổi mới chương trình sách giáo khoa, phân phối chương trình dạy học và phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các bộ môn trong nhà trường THPT nói chung. Cùng với mục tiêu là phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học. Bản thân tôi tuy tuổi nghề chưa nhiều, nhưng luôn cố gắng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp.

Và cũng từ thực tiễn dạy học tại trường THPT Sầm Sơn, bản thân tôi luôn trăn trở với việc học tập môn Ngữ văn của học sinh. Bởi đại đa số các em học sinh khi thi vào lớp 10 đều chọn cho mình khối A hoặc B, chứ ít em chọn khối học là C và D. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các em không muốn học hoặc ngại học môn Ngữ văn, ngại khám phá những chân trời văn học với nhiều tác phẩm có giá trị. Cũng từ đó mà mỗi tiết học Ngữ văn sẽ trôi đi trong nhàm chán nếu giáo viên không hoặc ít biết khơi dậy ở các em sự tò mò và say mê đối với các tri thức Ngữ văn thì sẽ đẩy các em vào tình trạng thụ động trong việc tiếp thu tri thức. Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là làm sao đánh thức được lòng ham thích học văn của mỗi em học sinh trong từng tiết học hay ít ra cũng giúp các em chú tâm, không thờ ơ và sao nhãng đối với các tiết học Ngữ văn nói chung và phân môn đọc - hiểu văn bản nói riêng, trong đó có tiết đọc - hiểu văn bản ký sự theo đặc trưng thể loại.

Hơn nữa, môn Ngữ văn có thể xem là môn học bắt buộc theo đúng nghĩa của nó đối với từng học sinh. Vì tuy không theo học khối C hoặc D, nhưng mỗi em đều cần phải bước qua một cánh cửa quan trọng đó chính là kỳ thi THPT Quốc gia. Và Ngữ văn là một trong ba môn thi bắt buộc bên cạnh Toán và Ngoại ngữ trong kì thi THPT Quốc gia hàng năm.

 

doc 21 trang thuychi01 6801
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp đọc- Hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà” theo đặc trưng thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ thực tiễn đổi mới chương trình sách giáo khoa, phân phối chương trình dạy học và phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các bộ môn trong nhà trường THPT nói chung. Cùng với mục tiêu là phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học. Bản thân tôi tuy tuổi nghề chưa nhiều, nhưng luôn cố gắng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp. 
Và cũng từ thực tiễn dạy học tại trường THPT Sầm Sơn, bản thân tôi luôn trăn trở với việc học tập môn Ngữ văn của học sinh. Bởi đại đa số các em học sinh khi thi vào lớp 10 đều chọn cho mình khối A hoặc B, chứ ít em chọn khối học là C và D. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các em không muốn học hoặc ngại học môn Ngữ văn, ngại khám phá những chân trời văn học với nhiều tác phẩm có giá trị. Cũng từ đó mà mỗi tiết học Ngữ văn sẽ trôi đi trong nhàm chán nếu giáo viên không hoặc ít biết khơi dậy ở các em sự tò mò và say mê đối với các tri thức Ngữ văn thì sẽ đẩy các em vào tình trạng thụ động trong việc tiếp thu tri thức. Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là làm sao đánh thức được lòng ham thích học văn của mỗi em học sinh trong từng tiết học hay ít ra cũng giúp các em chú tâm, không thờ ơ và sao nhãng đối với các tiết học Ngữ văn nói chung và phân môn đọc - hiểu văn bản nói riêng, trong đó có tiết đọc - hiểu văn bản ký sự theo đặc trưng thể loại. 
Hơn nữa, môn Ngữ văn có thể xem là môn học bắt buộc theo đúng nghĩa của nó đối với từng học sinh. Vì tuy không theo học khối C hoặc D, nhưng mỗi em đều cần phải bước qua một cánh cửa quan trọng đó chính là kỳ thi THPT Quốc gia. Và Ngữ văn là một trong ba môn thi bắt buộc bên cạnh Toán và Ngoại ngữ trong kì thi THPT Quốc gia hàng năm.
 	Từ đó để có thể thấy được tầm quan trọng của mỗi tiết học Ngữ văn. Nhưng đối với các em học ban KHTN thì học môn Ngữ văn không phải là dễ, nếu không muốn nói là khó. Khó vì các em chưa thật nổ lực cố gắng, chưa chủ động, tích cực để khám phá những kiến thức đầy lý thú trong mỗi bài học Ngữ văn. Đây cũng chính là vấn đề cụ thể được đặt ra đối với mỗi giáo viên dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói chung và trường THPT Sầm Sơn nói riêng. Chúng ta thường nói đến việc đổi mới phương pháp dạy học, phải chăng là việc phương pháp dạy học theo kiểu từ truyền thụ một chiều mà học sinh tiếp thu một cách thụ động (theo kiểu cô đọc, trò chép), sang dạy theo phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy được tính chủ động, sáng tạo, khả nămg tự học và tự vận dụng kiến thức vào giải quyết những tình huống học tập cụ thể. Qua đó, dần tạo được hứng thú học tập môn Ngữ văn nói chung, trong đó có tiết đọc- hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhận thức được vấn đề cấp thiết trên và cũng để góp phần đổi mới dạy học, tạo hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói chung và với phân môn đọc - hiểu văn bản nói riêng, bản thân tôi mạnh dạn trình bày đề tài: Phương pháp đọc- hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà” theo đặc trưng thể loại.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Với SKKN này, bản thân tôi đã sử dụng tác phẩm tùy bút có trong chương trình Ngữ văn 12- Tập I để kiểm chứng cho phương pháp dạy học của mình, đó là văn bản: "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp phân tích.
2. Phương pháp tổng hợp.
3. Phương pháp chứng minh.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Khái niệm về thể ký nói chung và tùy bút nói riêng.
 a. Ký: Tên gọi chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao giữa văn học và ngoài văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại) chủ yếu là văn xuôi tự sự gồm các thể như bút ký, hồi ký, du ký, ký sự, nhật ký
 b. Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại (Từ điển thuật ngữ văn học). 
Cũng có cách hiểu khác đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xuôi ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy - lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân - nhà văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam - cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặc trưng nghệ thuật của thể tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người nghệ sĩ. 
 Bất kỳ sáng tác văn chương có giá trị nào cũng đều bắt đầu từ những cung bậc cảm xúc đậm màu sắc chủ quan, chứ không riêng gì tùy bút. Để cho ngọn bút có thần thì cảm xúc ở người nghệ sĩ phải chân thành, phải thăng hoa đến độ mãnh liệt. Mặt khác, một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ rất dễ dẫn đến lẫn lộn giữa lối viết phóng khoáng, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt tùy tiện; đồng thời cũng không chỉ ra được bản chất và vai trò của yếu tố chủ quan trong tùy bút. Bởi vì:“Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể thẩm mỹ vẫn phải chân thực” .
2. Đặc điểm cơ bản của thể ký ( trong đó có tùy bút)):
 Thứ nhất: Tác phẩm ký đòi hỏi tính chân thật của sự việc và sự kiện, hay nói cách khác đó chính là tính khách quan thể hiện trong mỗi tác phẩm ký. Bởi vì, ký nói chung đều là sự phản ánh những sự việc có thật, những con người có thật. Tuy nhiên, sự việc ấy được hồi tưởng và tái hiện thông qua lăng kính chủ quan của tác giả, nên nhiều khi sự thật bị “méo mó”, “sai lệch”. Nhưng so với các thể loại văn học khác như tiểu thuyết, truyện ngắn thì ký vẫn là một thể loại văn học đặc biệt vì có thể xem tác phẩm ký là nguồn “tư liệu” đáng tin cậy.
 Thứ hai: Ở tác phẩm ký, tuy dấu ấn của tác giả không nhiều như trong thơ, truyện ngắnnhưng ký lại đòi hỏi tác giả phải là người trong cuộc, tức là người được tham dự hay chứng kiến những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Vì vậy, khi tái hiện lại những hiện thực đã được chứng kiến vào tác phẩm thì chủ yếu là thông qua hồi ức của tác giả nên không tránh khỏi tính chủ quan, phiến diện. Nhưng chính nhờ vào sự diễn đạt sinh động mang tính chủ quan của cá nhân tác giả- người trong cuộc, mà đã góp phần tạo nên tính xác thực và độ tin cậy cao cho sự việc được tái hiện, cũng như tạo được hiệu ứng nghệ thuật cho tác phẩm ký.
 Thứ ba: Tác phẩm ký đòi hỏi tính chân thật của từng sự việc, sự kiện, nhưng không có nghĩa là tác phẩm ký “khước từ” hoàn toàn các thủ pháp nghệ thuật mà chỉ là sự trần thuật thông qua dòng hồi ức đơn thuần của tác giả. Bởi xét đến cùng ký vẫn là một thể loại văn học, mà đã là tác phẩm văn học thì ngoài hiện thực được đề cập đến nó vẫn cần phải được “chế tác” thêm nhờ vào tài năng vận dụng các biện pháp nghệ thuật đẻ làm sao tác phẩm vừa giữ được cái hồn của “sự thật” mà vẫn thu hút được người đọc bởi sự sinh động, hấp dẫn mà các thủ pháp nghệ thuật tạo ra. Ở tác phẩm ký đó là khả năng quan sát và tái hiện sinh động, ngôn ngữ giàu hình ảnh
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua thực tế mỗi tiết dạy trên lớp, bản thân tôi nhiều khi phải băn khoăn, lo lắng trước thái độ thờ ơ, nhiều khi dẫn đến sự hiểu biết sai lệch trước một vấn đề nào đó có liên quan đến các tiết học Ngữ văn nói chung, trong đó có tiết đọc- hiểu văn bản ký sự. Điều đáng bàn là việc thờ ơ của học sinh đối với môn Ngữ văn không chỉ diễn ra ở một trường THPT đơn lẻ nào, mà nó là tình trạng chung ở hầu hết các trường THPT hiện nay. Vậy tình trạng này là do đâu? Phải chăng là do học sinh không còn hứng thú với môn Ngữ văn- môn học mà lâu nay được xem là bồi dưỡng tâm hồn cho các em, giúp các em sống tốt hơn, sống đẹp hơn; hay tại các em sợ học văn, ngại học văn? Có một thực tế ở các nhà trường THPT nói chung và trường THPT Sầm Sơn nói riêng, điều mà chúng ta không thể phủ nhận đó là có khoảng 90% học sinh theo học ban KHTN, chỉ có khoảng 10% các em lựa chọn ban KHXH và NV. Điều đó đồng nghĩa với việc các em không lựa chọn môn Ngữ văn là môn học chính cho mình và xem nó là một môn học phụ như các môn: GDCD, Thể dục, Sử, ĐịaDo đó, các em sẽ không giành nhiều thời gian, công sức cho môn học, thậm chí nhiều em còn không thèm để ý đến những kiến thức mà thầy cô truyền đạt trên lớp. Nên thậm chí khi giáo viên kiểm tra có em còn nhớ sai tên nhân vật trong tác phẩm văn học này với một tác phẩm văn học khác.
Hơn thế nữa, mục tiêu của các em học sinh THPT là làm sao để có thể thi đậu vào các trường ĐH,CĐ. Và với mục tiêu ấy, các em sẽ lựa chọn học ban KHTN để có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cho tương lai. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường như hiện nay, hầu hết các em đều rất thực tế khi lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Vì vậy, môn Ngữ văn nói riêng và ban KHXH và NV nói chung không còn là sự lựa chọn hàng đầu của đại đa số các em học sinh.
Điều này cũng xuất phát từ thực tiễn của việc học Ngữ văn. Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn, tôi không nói học văn là khó nhưng quả thực cũng không phải dễ, đặc biệt là với những học sinh không hề có năng khiếu trong việc cảm thụ văn chương thì một tiết học Ngữ văn đối với các em sẽ trôi đi trong nhàm chán và vô vị. Và nếu giáo viên không có phương pháp truyền đạt sinh động, thu hút được sự chú ý của học sinh thì nhiều khi giờ dạy - học văn sẽ biến thành những giờ “độc thoại” của giáo viên. Hơn thế nữa, để đạt được điểm 9, 10 đối với các môn ban KHTN không phải là khó, nhưng để đạt được mức điểm ấy với các môn ban KHXH nói chung và đặc biệt với môn Ngữ văn nói riêng thì không hề dễ dàng, thậm chí là rất hiếm. Cùng với đó số trường đại học thi đầu vào khối C, D thì lại ít, không thoả mãn được yêu cầu lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Từ đó sẽ dẫn đến thực trạng học sinh không học và không thi vào khối C, D. Chỉ có một số học sinh không thể học ban KHTN thì các em mới lựa chọn ban KHXH &NV. Phần lớn các học sinh này khả năng cảm thụ tác phẩm là không nhiều vì đầu vào của các em thấp; chỉ có một số ít học sinh lựa chọn khối C, D là có khả năng cảm thụ văn chương tốt và các em có lòng yêu thích văn chương thực sự. Các em muốn tự mình khám phá kho tàng văn học của nhân loại. Còn lại phần lớn các em học sinh, kể cả học sinh đang ngồi ở các lớp học được xem là chọn văn đều mang tâm lý là ngại học văn, thậm chí là sợ học văn.
Và cũng từ thực tế dạy dạy học ở chương trình Ngữ văn THPT chỉ có duy nhất hai tiết dành cho thể loại tùy bút ở sách ngữ văn 12 (Tập 1) với văn bản: "Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Điều này sẽ tạo ra sự khó khăn cho học sinh khi yêu cầu các em phải nắm được đặc trưng của một thể loại văn học mà chỉ thông qua một tác phẩm duy nhất. Mà tác phẩm văn học này lại ra đời cách các em khoảng thời gian khá xa, đây cũng là một yếu tố gây khó khăn cho việc tiếp thu và cảm nhận tác phẩm của học sinh.
	Còn đối với giáo viên, cũng có những khó khăn nhất định. Bởi chỉ trong 2 tiết học ngắn ngủi phải lựa chọn và tìm ra được phương pháp dạy học tối ưu để vừa giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về thể loại ký sự thông qua tác phẩm: "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân; lại vừa phát huy được ở các em tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Những khó khăn nói trên là có thực, nhưng trong quá trình dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy tác phẩm ký sự nói riêng cũng có những thuận lợi nhất định. Đó chính là nguồn tư liệu tham khảo cho bài học phong phú và dễ tìm, các thiết bị hỗ trợ học tập đều có sẵn và đáp ứng đủ yêu cầu cho việc dạy học, giáo viên có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để phát huy khả nămg trực quan cũng như góp phần tạo hứng thú cho các em trong mỗi tiết học.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên, bản thân tôi đã hệ thống hoá những vấn đề có liên quan đến việc dạy học thể ký sự theo đặc trưng thể loại; đồng thời cũng chỉ ra được những khó khăn và thuận lợi của thầy và trò trong quá trình dạy học một tác phẩm văn chương nói chung và một tác phẩm ký sự trung đại nói riêng. Để từ đó, tôi đưa ra một số biện pháp giúp cho tiết: Đọc- hiểu văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại đạt hiệu quả cao nhất.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN:
Giải pháp thực hiện:
Qua quá trình dạy học thực tiễn đối với tiết học: Đọc- hiểu văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại, bản thân xin đưa ra một số giải pháp sau:
1.1. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản tùy bút qua việc tìm hiểu thể loại và nhan đề của tác phẩm:
a. Thể loại: Để học sinh nắm được khái niệm và đặc điểm cơ bản của thể loại tùy bút, tôi đã đưa ra vấn đề yêu cầu các em suy nghĩ và trình bày: Các em đã được học tác phẩm ký ở chương trình THCS, hãy nhắc lại tên của tác phẩm đó và nêu được những nét khái quát về ký ? 
Học sinh có thể nhớ và nêu được chính xác tên tác phẩm ký đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ. Nhưng chưa nêu được những nét khái quát về tác phẩm ký. Giáo viên cần căn cứ vào câu trả lời của học sinh để từ đó hướng các em tìm hiểu khái niệm và đặc điểm cơ bản của thể loại tùy bút thể hiện trong văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân 
- Khái niệm: Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại (Từ điển thuật ngữ văn học). 
 - Đặc điểm: Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể thẩm mỹ vẫn phải chân thực”
b. Nhan đề: 
Nhan đề chính là cơ sở đầu tiên giúp chúng ta tìm hiểu văn bản. Qua nhan đề giáo viên cần hướng học sinh để các em bước đầu phát hiện ra một cách sơ lược chủ đề tư tưởng của văn bản.
Đối với văn bản Tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân , GV cần giúp HS thấy được mối quan hệ giữa tác phẩm với văn bản mà các em sẽ tìm hiểu để học sinh thấy được tầm quan trọng của việc đọc – hiểu một văn bản văn học gắn với đặc trung thể loại. Muốn làm được điều đó trước tiên giáo viên cần cho học sinh nắm được nhan đề của tác phẩm, bằng cách nêu vấn đề: Anh (chị) có suy nghĩ gì về nhan đề của văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ?
Giáo viên chốt lại vấn đề: Cũng như các tác phẩm kí đã học, tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là sự ghi chép của tác giả về những gì mình được chứng kiến về sông Đà qua những cung bậc cảm xúc khác nhau của chính nhà văn. 
Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu văn bản tùy bút qua việc tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tùy bút sông Đà và vị trí, bố cục của văn bản Người lái đò sông Đà:
 Xuất xứ: Sau khi đã giúp học sinh thấy được ý nghĩa của việc tìm hiểu nhan đề tác phẩm gắn với thể loại, giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh khám phá tác phẩm thông việc tìm hiểu xuất xứ của văn bản Người lái đò sông Đà, để từ đó HS có cái nhìn khái quát về tập Tùy bút sông Đà và mối quan hệ của văn bản với toàn bộ tác phẩm. thông qua việc tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tập tùy bút.
GV đưa ra câu hỏi: Em hãy nêu xuất xứ của tác phẩm “ Người lái đò sông Đà ”?
=> Trích trong tập tuỳ bút “ Sông Đà ”.
b.Hoàn cảnh ra đời:
 Khi học sinh đã nắm được xuất xứ của văn bản, giáo viên cần hướng các em đến việc tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của văn bản nói riêng và toàn bộ tập tùy bút Sông Đà nói chung. Bởi hoàn cảnh cũng chi phối rất lớn đến nội dung tư tưởng của tác phẩm đặc biệt là các tác phẩm kí nói chung và tùy bút nói riêng. 
Để làm được điều đó giáo viên cần đưa ra câu hỏi: Trình bày những hiểu biết của mình hoàn cảnh sáng tác của tập tuỳ bút “ Sông Đà ” trong đó có Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân?
=> Hoàn cảnh sáng tác: Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
 c.Bố cục: 
 Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh đọc- hiểu văn bản tùy bút thông qua việc tìm hiểu các yếu tố như: thể loại, xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thì giáo viên cần hướng học sinh đến việc tìm hiểu bố cục văn bản. Bởi đó là căn cứ để học sinh khám phá nội dung cũng như nghệ thuật viết tùy bút của Nguyễn Tuân. Muốn phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc cảm thụ tác phẩm văn chương để từ đó khơi dạy ở các em sự ham mê, hăng say đối với mỗi giờ học Ngữ văn, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi phù hợp và mang tính gợi mở. 
Ở tình huống nay tôi đã đưa ra câu hỏi: Theo em văn bản Người lái đò sông Đà có những hình tượng nghệ thuật nào?
 Sau khi học sinh phát biểu, thảo luận, giáo viên cần chốt lại vấn đề: Bố cục gồm 2 hình tượng:	- Hình tượng sông Đà.
 	- Hình tượng ông lái đò.
Sau đó cho học sinh nhận xét về bố cục của văn bản với câu hỏi: Em hãy nêu nhận xét của mình về bố cục của văn bản ?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên cần rút ra nhận xét chung: văn bản có bố cục rất rõ ràng, mạch lạc, các hình tượng được kể tả theo trình tự hợp lí.
1.3. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản tùy bút: Qua việc tìm hình tượng sông Đà trong văn bản: 
Ở văn bản tùy bút, sự việc được tái hiện chính là cái mà tác giả đã được tham gia hoặc chứng kiến ở quá khứ. Do đó, để nắm được các sự việc của văn bản, giáo viên cần từng bước hướng dẫn học sinh khám phá từng sự việc được phản ánh.
GV: Cho HS xem đoạn phim về ký sự sông Đà và nêu câu hỏi: Nêu cảm nhận của em về hình tượng Sông Đà?
HS: Làm việc theo nhóm, thảo luận và trả lời bằng phiếu học tập.
Tuy nhiên, để học sinh nắm được các chi tiết cụ thể của vấn đề, giáo viên cần khéo léo khi đưa ra các câu hỏi và tôn trọng câu trả lời của các em, cần tránh tình trạng áp đặt.
 Đối với câu hỏi này, học sinh có thể đưa ra rất nhiều cảm nhận riêng của bản thân mình về sông Đà như:hung bạo, trữ tình. Lúc này giáo viên phải làm công việc tổng hợp và khái quát lại những kiến thức mà học sinh phát biểu để tạo nên tính hệ thống, giúp học sinh dễ nhớ. Với các ý chính: sông Đà hung bạo dữ dội và trữ tình , thơ mộng. 
 Để học sinh tiếp tục khám phá tác phẩm, giáo viên đưa ra vấn đề: GV: Sự dữ dội của dòng sông Đà đựơc hiện lên qua những chi tiết nào?Ở đây, giáo viên cần chú ý lắng nghe và lựa chọn ý kiến hợp lý của học sinh, bởi có em đồng tình và cũng có em không đồng tình. Nhưng quan trọng là qua đây phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh ở phần lý giải để bảo vệ cho câu trả lời của các em. Giáo viên chốt lại vấn đề dựa trên cơ sở câu trả lời đúng của học sinh: Hình tượng sông Đà hung bạo, dữ dội được hiện lên qua:Cảnh bờ sông,những ghềnh thác,tiếng thác nước: thở và kêu như cửa cống cái bị sặc; nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin....Đá Sông Đà: Bày ra các thạch trận: vòng vây thứ nhất, vòng vây thứ hai, vòng vây thứ ba...;Có chiến thuật, miêu mô: mai phục, một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền; Hình dáng: hòn nào hòn nấy trông ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó
 Giáo viên tiếp tục cho học sinh xem kí sự sông Đà và nêu vấn đề: Bên cạnh nét hung baọ, dữ dội; sông Đà còn hiện lên với nét thơ mộng, trữ tình. Hãy tìm những chi tiết thể hiện sông Đà thơ mộng, trữ tình?
 -Sông Đà thơ mộng: 
 + “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc chân tóc ẩn hiện dưới mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo...”
 + Nước Sông Đà : Mùa xuân - dòng xanh ngọc bích; mùa thu - lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
-> Sông Đà như một mĩ nhân hiền dịu và xuân sắc.
 - Sông Đà trữ tình:
 + Con sông Đà gợi cảm. Sông Đà như một cố nhân. -> nhớ thương, lưu luyến, gắn b

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_doc_hieu_van_ban_nguoi_lai_do_song_da_theo.doc
  • docBia skkn Hang.doc
  • docMỤC LỤC.doc