SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở trường THPT có điểm đầu vào thấp

SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở trường THPT có điểm đầu vào thấp

 Thân Nhân Trung đã từng viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao. Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các bậc thánh đế minh vương không ai không xem việc kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc làm đầu tiên”. Xã hội càng phát triển thì nhân tài càng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Bước sang thế kỉ XXI đất nước ta bước vào thời kì đẩy mạnh nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong đường lối đổi mới toàn diện của nước ta về giáo dục và đào tạo, Đảng ta xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.”. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm trồng những hạt giống nhân tài cho đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết. Bởi vì người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển.

doc 20 trang thuychi01 5973
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở trường THPT có điểm đầu vào thấp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT CÓ ĐIỂM ĐẦU VÀO THẤP.
 Người thực hiện : Lê Thị Thanh Hương
 Chức vụ : Giáo viên 
 SKKN thuộc môn : Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU..
 1
1.1. Lí do chọn đề tài..
 1
1.2. Mục đích nghiên cứu...
 1
1.3. Đối tượng nghiên cứu..
 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.....
 2
2. PHẦN NỘI DUNG..
 3
2.1. Cơ sở lý luận....
 3
2. 2. Thực trạng của vấn đề....
 3
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn..
 4
2.3.1. Đối với người học.................................................................................
 4
2.3.2. Đối với người dạy.................................................................................
 4
2.3. 2.1 Chọn sát đối tượng học sinh giỏi theo tiêu chí “Nhất tố chất – nhì đam mê”..
 4
2.3.2.2. Bám sát cấu trúc chương trình của Sở Giáo dục, xây dựng kế hoạch ôn tập trọng tâm...
 6
2.3.2.3. Tổ chức dạy bồi dưỡng theo tiêu chí “Kiến thức đúng - đủ - rộng - sâu”.
 6
2.3.2.4. Rèn luyện tốc độ viết nhanh và sạch đẹp..
 8
2.3.2.5. Tạo rung cảm thẩm mĩ để học sinh “nếm trải nghệ thuật”
 9
2.3.2.6. Đa dạng hóa đề kiểm tra kết hợp với chấm chữa thường xuyên...
 9
2.3.2.7. Tổ chức thi cọ xát giữa các trường THPT trong địa bàn huyện...
11
2.3.2.8. Trang bị sổ tay văn học.
12
2.3.2.9.Tổ chức cho học sinh nhận xét văn người và sửa văn mình...
12
2.3.2.10. Dạy trò bằng cả ĐỨC - TÂM trọn vẹn nơi người Thầy..
12
2.3.2.11. Phối hợp với các đoàn thể nhà trường và phụ huynh học sinh
13
2.4. Kết quả 
13
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..
16
3.1. Kết luận...
16
3.2. Kiến nghị.
16
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
 Thân Nhân Trung đã từng viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao. Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các bậc thánh đế minh vương không ai không xem việc kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc làm đầu tiên”. Xã hội càng phát triển thì nhân tài càng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Bước sang thế kỉ XXI đất nước ta bước vào thời kì đẩy mạnh nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong đường lối đổi mới toàn diện của nước ta về giáo dục và đào tạo, Đảng ta xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...”. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ươm trồng những hạt giống nhân tài cho đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết. Bởi vì người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển. 
 Để đánh giá chất lượng giáo dục của một nhà trường, Sở Giáo dục căn cứ vào hai tiêu chí: “chất lượng đại trà” và “chất lượng mũi nhọn”. Đã từ lâu việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ trọng tâm của một nhà trường THPT. Trong vài năm gần đây, chất lượng mũi nhọn của trường THPT Yên Định 3 có nhiều tiến bộ. Số giải học sinh giỏi cấp tỉnh được tăng lên. Song nhà trường cũng gặp những khó khăn nhất định, kết quả thực sự chưa đáp ứng với mục tiêu đề ra. Số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm không ổn định, chất lượng các giải không cao. Đặc biệt, riêng lẻ ở vài môn số lượng giải còn ít hơn so với một số trường trong khu vực. Thậm chí ở một vài môn, đội tuyển học sinh giỏi không đủ số lượng và không có giải. Mặt khác, một số phụ huynh không muốn cho con em mình học bồi dưỡng vì chiếm quá nhiều thời gian dẫn tới học lệch các môn. Đó là những vấn đề trăn trở mang tính cấp thiết đối với người dạy. Giáo viên phải suy nghĩ tìm ra biện pháp tháo gỡ để bảo đảm sao cho phong trào học tập của học sinh được duy trì tốt nhất và việc bồi dưỡng học sinh giỏi - phong trào mũi nhọn của nhà trường đạt được kết quả tốt. Đây cũng là lĩnh vực được nghiên cứu một cách nghiêm túc và đề xuất các biện pháp hữu hiệu, khả thi để đạt kết quả cao hơn. Xuất phát từ những vấn đề trên, bản thân tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn ở trường THPT có điểm đầu vào thấp”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm:
- Hệ thống hoá và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở những trường THPT có điểm đầu vào thấp. 
- Nâng cao chất lượng học tập và giáo dục của bộ môn, góp phần nhỏ bé vào công cuộc CNH – HĐH đất nước.
- Được nghe lời nhận xét góp ý từ đồng nghiệp, đồng môn.
- Mong muốn được hội đồng khoa học các cấp nhận xét, đánh giá, ghi nhận kết qủa nỗ lực của bản thân giúp cho tôi có nhiều động lực mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Là học sinh khối C,D lớp 11B5, 11B6, 11B7 tại trường THPT Yên Định 3.
* Thuận lợi:
- Học sinh có ý thức, chăm ngoạn, lễ phép, có mục tiêu phấn đấu rõ ràng.
- Học sinh nông thôn, ít tệ nạn xã hội, có ý thức vươn lên để thoát khỏi đói nghèo.
- Học sinh có nguyện vọng tham gia cuộc thi HSG do trường, tỉnh tổ chức.
* Khó khăn: 
- Điểm tuyển sinh vào 10 THPT môn Ngữ văn không cao, chỉ duy nhất một em điểm 8.0. Cụ thể: Nguyễn Thị Thùy Linh (8.0đ), Lê Thị Thảo (7.0), Trịnh Thu Thủy (7.5), Nguyễn Thị Hương Ly (7.0), Phan Thị Vân Anh (6.5đ). 
- Nhà ở xa, có hai em hoàn cảnh gia đình đặc biệt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: 
-Nghiên cứu các tài liệu, nghị quyết của Đảng. 
- Nghiên cứu các chỉ thị của ngành, các tạp chí, các tài liệu có liên quan
 * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 
- Phương pháp khảo sát và phân loại
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
 Năm học 2018 – 2019, ngành Giáo dục tiếp tục tập trung thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó có nêu: Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
 Trong quá trình dạy học thì việc chú ý tới sự phát triển của từng học sinh luôn là yêu cầu cơ bản. Bởi vậy việc bồi dưỡng học sinh giỏi bao giờ cũng là nhiệm vụ trọng tâm. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT không chỉ phát huy khả năng phát triển của học sinh. Mặt khác, kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá sự phát triển của nhà trường. Thành tích giáo dục mũi nhọn khẳng định uy tín của nhà trường. Mỗi học sinh giỏi không những là niềm tự hào của cha mẹ, thầy cô giáo mà còn của cả cộng đồng. 
2. 2. Thực trạng của vấn đề
a. Thuận lợi
- Qua nghiên cứu thực tế cho thấy việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi được 
nhà trường quan tâm chỉ đạo, động viên, khích lệ kịp thời ngay từ đầu năm học. Hơn nữa, bản thân người đứng chốt đội tuyển cũng không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ, phẩm chất và năng lực. 
- Học sinh đều chăm ngoan, có ý thức tự giác, vươn lên trong học tập và đặt ra mục tiêu phấn đấu rõ ràng.
b. Khó khăn: 
 Bên cạnh những thuận lợi, công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ở 
trường THPT Yên Định 3 còn một số hạn chế: 
- Việc phát hiện và tuyển chọn học sinh có năng khiếu, có tài năng còn 
thiếu cơ sở khoa học nên chưa chính xác và triệt để. 
- Chưa có nội dung chương trình chuẩn mực để bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Sự quan tâm, đầu tư của phụ huynh học sinh còn ít, nhiều phụ huynh đi 
làm ăn xa. 
- Trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi còn chưa nhiều, chưa động viên được người dạy một cách kịp thời.
- Chất lượng và số lượng học sinh giỏi chưa ổn định. 
- Học sinh có tố chất thực sự tại trường THPT có điểm đầu vào thấp hầu như không có. Đa phần đều là học sinh có học lực Khá.
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn:
 Ông cha ta thường nói: “Có bột mới gột nên hồ”, “Không thầy đố mày làm nên”. Như vậy, yếu tố tạo nên chất lượng học sinh giỏi nằm ở cả hai phía: người học lẫn người dạy.
2.3.1. Đối với người học
Để tự tin và học giỏi môn Ngữ văn trong nhà trường, học sinh cần có phương pháp học tập sao cho khoa học, hợp lý:
- Đọc và soạn bài kỹ trước khi đến lớp. Chú ý ghi lại những từ ngữ quan trọng, những vấn đề còn chưa rõ trong bài để khi đến lớp khi nghe thầy cô giảng bài học sinh sẽ tiếp thu nhanh hơn. Phải mạnh dạn hỏi ngay những gì còn chưa hiểu với thầy cô, bạn bè.
- Cần có lòng đam mê, yêu thích môn học. Bởi học sinh có yêu thích mới có hứng thú trong học tập. Đây là một trong những yếu tố rất cần thiết để học tốt môn này. Vậy bằng cách nào? Phải thường xuyên rèn luyện thói quen đọc sách, tham gia các hoạt động trải nghiệm 
- Rèn luyện một trí nhớ tốt để nắm bắt được bài mới ở lớp cũng như các kiến thức đã học trước đó.
- Luôn tìm tòi mở rộng kiến thức. Chương trình trong sách giáo khoa vốn là kiến thức chuẩn, căn bản nhưng không thể giải thích cặn kẽ hết mọi vấn đề vì thời lượng chương trình không cho phép. Cho nên, để hiểu rõ và nắm chắc kiến thức trong sách giáo khoa chúng ta cũng cần tìm đọc thêm sách tham khảo, những bài văn hay chọn lọc, những bài văn đạt giải cao trong các kì thi... Đồng thời, nên luyện viết thật nhiều, bắt đầu từ những vấn đề đơn giản rồi đến những vấn đề khó hơnViệc luyện viết nhiều sẽ giúp rèn luyện tư duy nhanh, tích luỹ thêm kiến thức, vốn từ, hình thành kĩ năng kĩ xảo. 
- Cần có ý thức tốt, có ý chí quyết tâm, vươn lên trong học tập và đặt ra cho bản thân mục tiêu phấn đấu rõ ràng.
2.3.2. Đối với người dạy
2.3. 2.1 Chọn sát đối tượng học sinh giỏi theo tiêu chí “Nhất tố chất – nhì đam mê”:
- Không giống như trường chuyên và trường THPT số 1,2 của các huyện trong địa bàn tỉnh, đối tượng để lựa chọn ở các trường THPT số 3,4 gặp nhiều khó khăn. Hầu hết, rất hiếm học sinh có tố chất tốt thực sự. Bởi vậy, việc lựa chọn học sinh là khâu đầu tiên mang tính chất quyết định đến sự thành bại trong công tác bồi dưỡng sau này.
- Khi lựa chọn đối tượng học sinh giỏi, giáo viên cần căn cứ vào những cơ sở như sau:
+ Căn cứ vào đối tượng học sinh đã từng tham gia các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh (nếu có) ở cấp THCS: Bởi vì đối tượng học sinh này đã được cọ xát và tiếp cận trực tiếp với cách thức ôn tập và giải đề. Điều này sẽ tạo nền tảng cho học sinh dễ dàng tiếp cận kiến thức mới. Tuy nhiên, tại trường THPT Yên Định 3, số học sinh đạt giải cấp tỉnh ở cấp THCS hầu như rất hiếm, chỉ một bộ phận tham gia thi cấp huyện, một số ít được lựa chọn tham gia thi cấp tỉnh hầu như không đạt giải hoặc có giải thấp (khuyến khích).
+ Căn cứ vào kết quả môn học cấp THCS: Đó là cơ sở cho cả một quá trình phấn đấu dài của học sinh. Từ đó, giáo viên có cơ sở để nắm bắt tình hình thực tế.
+ Căn cứ điểm tuyển sinh vào 10 THPT: Đây không hẳn là yếu tố quyết định nhưng nó là một kênh tốt để giáo viên theo dõi, lựa chọn học sinh.
+ Căn cứ vào bài viết đầu tiên vì đó là dấu ấn đặc biệt, là cơ sở đề giáo viên phát hiện tố chất học sinh, “chất người” ngay ở nét bút đầu cấp THPT.
+ Căn cứ vào thái độ, ý thức, sự tập trung, niềm đam mê của học sinh đối với môn học: Đây là căn cứ cơ bản để lựa chọn học sinh. Bởi trên thực tế, số học sinh có tố chất và năng lực tốt đều tham gia học ở những trường THPT số 1, 2 của huyện, còn lại đa phần học sinh có học lực trung bình, khá, năng lực cảm thụ văn chương kém. Vậy nên, có thể là phi thực tế nhưng lại vô cùng hợp lí đối với những trường THPT có đầu vào thấp. Đối tượng để lựa chọn tham gia đội tuyển học sinh giỏi phải có niềm đam mê và ý thức tốt trong học tập. Đó cũng là khó khăn chung của giáo viên đứng chốt đội tuyển. Khuyến khích lựa chọn những học sinh yêu văn, đam mê văn học.
- Đặc biệt, giáo viên chỉ nên chọn số lượng học sinh tham gia ôn tập vừa phải và hợp lí: Nên chọn thừa từ 1-2 em, không nên chọn đủ số lượng tham gia thi chính thức, cũng không nên chọn thừa quá nhiều. Nếu chọn đủ thì ta sẽ đánh mất cơ hội, nhân tài mà ta chưa khai thác hết, nó sẽ tạo độ ì lớn mà không có sức phấn đấu để cạnh tranh, loại bỏ. Ngược lại, nếu chọn thừa nhiều thì đội tuyển sẽ loãng, tạo tâm lí chán nản, tự ti cho học sinh. Vậy nên, ta chỉ chọn số lượng học sinh vừa phải và phù hợp để tạo môi trường thi đua, tạo cơ hội cho học sinh biết vươn lên chiếm lĩnh kiến thức. Nó sẽ là động lực để nâng cao chất lượng. 
2.3.2.2. Bám sát cấu trúc chương trình của Sở Giáo dục, xây dựng kế hoạch ôn tập trọng tâm:
- Mỗi năm trước khi kì thi học sinh giỏi được tổ chức, Sở Gíao dục và Đào tạo đều soạn thảo khung chương trình gửi tới các nhà trường về nội dung, cấu trúc, phạm viôn tập. Giáo viên cần lấy đó làm căn cứ để xây dựng kế hoạch, định hướng nội dung ôn tập.
- Kế hoạch đưa ra phải bám sát vào cấu trúc đề thi học sinh giỏi của Sở, tránh bỏ sót, tự cắt giảm nội dung. Kế hoạch phải cụ thể về thời gian, nội dung và cách thức thực hiện. Đó là chiếc “xương sống” làm cơ sở để triển khai hoạt động dạy học một cách cân đối, hiệu quả.
2.3.2.3. Tổ chức dạy bồi dưỡng theo tiêu chí “Kiến thức đúng - đủ - rộng - sâu”:
Từ kế hoạch đã xây dựng, giáo viên tổ dạy bồi dưỡng cho học sinh giỏi theo từng bước cụ thể như sau:
- Bước 1: Phải cung cấp một cách chính xác và đầy đủ những kiến thức cơ bản, trọng tâm của nội dung bài dạy. 
+ Đối với văn bản: Bám sát vào “Chuẩn kiến thức và kĩ năng” trong quá trình triển khai hoạt động dạy học. Đối với mỗi bài cụ thể, giáo viên cần chỉ ra cho học sinh thấy được những nội dung cơ bản về tác giả tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, khuynh hướng, trào lưu, đề tài, chủ đề Giáo viên có thể sưu tầm những đoạn tư liệu quý về tác phẩm, về cuộc đời tác giả. Nó sẽ là kho tư liệu sống động và chân thực để khơi dậy trong các em sự hiểu biết, đồng cảm, thấu hiểu những tâm sự mà tác giả đó gửi gắm qua đứa con đẻ tinh thần của mình, tạo cơ hội để các em nếm trải nghệ thuật. Chẳng hạn: Khi dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử), giáo viên có thể gợi mở cho học sinh về những kiến thức liên quan đến cuộc đời đau thương của tác giả: nỗi đau đớn quằn quại trong bệnh tật bị người đời xa lánh; bi kịch tình yêu liên quan đến Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương, Hoàng Cúc; tiếng nói của một linh hồn khát sống giãy giụa trong thế giới “Thơ điên” để lãng quên hiện thựcĐặc biệt, giáo viên gợi mở đến mối tình của tác giả với Hoàng Cúc; nêu hoàn cảnh bi đát của Hàn Mặc Tử trước khi nhận được tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi tặng. Từ đó, học sinh sẽ có cái nhìn cảm thông, xót thương, thấu hiểu nỗi đau đớn của tác giả. Đó cũng là cơ sở quan trọng để học sinh hứng thú trong việc tiếp nhận nội dung tác phẩm.
 Gíao viên cũng cần khát quát lại dưới dạng sơ đồ tư duy cuối mỗi bài học về nội dung chính cần nắm vững. Đây sẽ là cơ sở đầu tiên để học sinh có thể tự tiếp cận với nhiều kiến thức liên quan đến bài học qua các tài liệu sách báo, mạng internetTừ đó, giúp học sinh có thể tự lựa chọn kiến thức đúng để mở rộng vốn hiểu biết về nội dung tác phẩm. Nếu không làm tốt bước này, học sinh sẽ mơ hồ trong việc tiếp cận nội dung tác phẩm. Đặc biệt, cung cấp cho học sinh những nhận định hay về tác giả-tác phẩm. Đây sẽ là cơ sở để học sinh lựa chọn để tạo ưu thế cho bài viết.
+ Đối với kiến thức Đọc – hiểu phần Tiếng Việt: Thông thường một đề thi học sinh giỏi văn có hai phần: Phần Đọc – hiểu và phần Làm văn. Vì vậy trong quá trình bồi dưỡng giáo viên không được bỏ qua ôn luyện giảng dạy tiếng Việt. Giáo viên cần chỉ rõ và khắc sâu những kiến thức trọng tâm cơ bản, có kèm theo ví dụ chứng minh cụ thể về: các biện pháp tu từ, các phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận, cách xác định câu chốt, đặt nhan đề, rút ra thông điệpqua văn bản để học sinh rèn luyện và hình thành kĩ năngĐặc biệt, giáo viên dạy cách nhận biết kiến thức thông qua những dấu hiệu đặc trưng.
      Đối với từng loại đơn vị kiến thức giáo viên hứng dẫn học sinh ôn tập và phải có hệ thống bài tập ứng dụng với từng loại. Thường thì học sinh có thói quen khi làm bài tiếng việt hay trả lời vắn tắt, nhưng đối với học sinh giỏi thì phải trình bày rõ ràng, mạch lạc khoa học cho nên giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho học sinh từ cách trình bày, cách phân tích giá trị của từ, biện pháp tu từ...
+ Đối với kiến thức lí luận: Cung cấp thật đầy đủ và sắc nét về những kiến thức liên quan đến lí luận văn học như: Hiện thực- Nhà văn- Bạn đọc; phong cách sáng tác; Quan điểm nghệ thuật; Những vấn đề liên quan đến nội dung và hình thức tác phẩm; Đặc trưng cơ bản của thơ, truyệnMỗi vấn đề lí luận cần cung cấp một hệ thống kiến thức trọng tâm kết hợp những vấn đề nhận định liên quan đến kiến thức lý luận, yêu cầu học sinh nắm vững và ghi nhớ để sử dụng trong quá trình làm bài.
- Bước 2: Mở rộng và đào sâu kiến thức liên quan đến bài học. Từ kiến thức cơ bản trọng tâm ban đầu, người dạy cần có những hướng tiếp cận kiến thức ở mức độ cao hơn. Đặc biệt, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần khắc sâu cho học sinh những chi tiết, những hình ảnhđặc sắc. Chỉ ra được triết lí sống, thông điệp tác giả muốn gửi gắm. Đối sánh với những tác phẩm cùng thời, cùng đề tài để làm nổi bật cái mới mẻ và độc đáo của vấn đề đang triển khai. 
Chẳng hạn, khi dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử). Đây là tác phẩm “có vấn đề”. Tác phẩm này không đơn thuần là một bài thơ tả cảnh. Cảnh chỉ là cái cớ, cái nền để nói tình. Sau khi phân tích 3 khổ thơ theo nội dung trong “chuẩn kiến thức kĩ năng”, giáo viên phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Dùng thi pháp ánh sáng để làm nổi bật dụng ý nghệ thuật và bi kịch của Hàn Mặc Tử: 
+ Khổ 1: Có ánh sáng của “nắng”: Đây là ánh sáng của thế giới thực. Đây còn là hình ảnh của quá khứ tươi đẹp với ngưỡng vọng được trở về.
+ Khổ 2: Có ánh sáng của “trăng”: Đây là ánh sáng của cõi mộng. Bất lực trước hiện tại mù mịt, tác giả tìm đến cõi mộng mong nhập thế.
+ Khổ 3: Có ánh sáng toát ra từ tà “Áo em trắng quá” và “sương khói”: Đây là ánh sáng của cõi hư ảo, mộng mị. Đây còn là hình ảnh của một tương lai u ám, lạnh lẽo. Như vậy, nhà thơ đi từ cõi thật đến cõi mộng, từ cõi mộng đến cõi mơ. Cả bài thơ là một giấc mơ.
- Dùng cấu trúc nội tại để làm nổi bật nỗi hoài nghi đau đáu, khao khát tình người của Hàn Mặc Tử: Cả bài thơ có tổng 12 câu thơ chia thành 3 khổ nhưng câu mở đầu và câu cuối cùng đều sử dụng câu hỏi tu từ. Bên cạnh đó, đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện phân bố đều ở ba khổ thơ:
+ Khổ 1: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+ Khổ 2: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
+ Khổ 3: Ai biết tình ai có đậm đà?
Nó như một lời hoài nghi của tác giả trước tình đời và tình người.
2.3.2.4. Rèn luyện tốc độ viết nhanh và sạch đẹp:
Trong bài thi học sinh giỏi, yêu cầu về mặt dung lượng là một trong những tiêu chí quan trọng. Để bài viết đạt kết quả cao thì dung lượng là yếu tố đầu tiên góp phần tạo nên kết quả cuối cùng. Trên thực tế khảo sát, sau khi cho học sinh thử sức ở bài viết đầu, tôi nhận thấy các em chỉ dừng lại hơn 4 trang giấy (một tờ). Trong khi đó, yêu cầu đối với học sinh giỏi cấp tình phải từ 12 trang giấy trở lên. Đây là một vấn đề cần được giáo viên dạy đội tuyển quan tâm. Trước hết, giáo viên xác định được hai nguyên nhân chủ yếu sau để có giải pháp khắc phục:
+ Nguyên nhân 1: Do đặc điểm viết chậm của học sinh. Để khắc phục được nhược điểm này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh viết tăng tốc để rèn luyện kĩ năng viết. Tôi thường đưa ra một bài hát mà học sinh thuộc lòng, sau đó yêu cầu các em viết lại trong khoảng thời gian một tiếng cố định qua lần 1, lần 2, lần 3mỗi ngày buộc các em phải tăng tốc, phải rèn luyện cơ tay. Đây là cách làm đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả.
+ Nguyên nhân 2: Do học sinh thiếu kiến thức. Để khắc phục ng

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_hoc_sinh_gioi.doc