SKKN Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy Ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - Đối thoại
Tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm thường xuyên và rất cần thiết đối với mỗi người giáo viên, nó không chỉ có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp mà còn tạo thói quen say mê nghiên cứu khoa học cho mỗi thầy cô nhằm đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.
Trong những năm gần đây, theo khảo sát thực tế nhiều học sinh không còn tâm huyết và yêu thích bộ môn văn. Trước tình hình đó, để tạo không khí và gieo vào lòng học sinh sự yêu thích học bộ môn văn là một thử thách đối với giáo viên. Mặc dù Bộ giáo dục đã tiến hành thay sách và liên tục có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy của giáo viên nhưng không phải hoàn cảnh nào giáo viên cũng có thể làm được. Bởi vậy cần tổ chức cho học sinh tham dự vào những tình huống mâu thuẫn văn học, vào hành động sáng tạo với nhà văn tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em phát hiện bộc lộ các quan điểm cách hiểu chủ kiến của riêng mình về các hiện tượng văn học. Có như vậy các em mới phát huy vai trò chủ thể tiếp nhận của mình hay nói đúng hơn là chủ động tiếp nhận kiến thức trong giờ học văn. Vì những lẽ trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại”
MỤC LỤC I. Mở đầu ..........1 1 Lí do chọn đề tài.............................................1 2. Mục đích nghiên cứu.....2 3. Đối tượng nghiên cứu2 4. Phương pháp nghiên cứu...2 II. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm.....3 1. Cơ sở lí luận .....3 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN 5 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.........6 4. Hiệu quả của SKKN........15 III. Kết luận và kiến nghị.... 16 1. Kết luận...16 2. Kiến nghị.....16 Tài liệu tham khảo...18 Danh mục các đề tài SKKN đã được đánh giá xếp loại..19 A. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm thường xuyên và rất cần thiết đối với mỗi người giáo viên, nó không chỉ có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp mà còn tạo thói quen say mê nghiên cứu khoa học cho mỗi thầy cô nhằm đáp ứng được yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới. Trong những năm gần đây, theo khảo sát thực tế nhiều học sinh không còn tâm huyết và yêu thích bộ môn văn. Trước tình hình đó, để tạo không khí và gieo vào lòng học sinh sự yêu thích học bộ môn văn là một thử thách đối với giáo viên. Mặc dù Bộ giáo dục đã tiến hành thay sách và liên tục có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy của giáo viên nhưng không phải hoàn cảnh nào giáo viên cũng có thể làm được. Bởi vậy cần tổ chức cho học sinh tham dự vào những tình huống mâu thuẫn văn học, vào hành động sáng tạo với nhà văn tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em phát hiện bộc lộ các quan điểm cách hiểu chủ kiến của riêng mình về các hiện tượng văn học. Có như vậy các em mới phát huy vai trò chủ thể tiếp nhận của mình hay nói đúng hơn là chủ động tiếp nhận kiến thức trong giờ học văn. Vì những lẽ trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại” Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin mạnh dạn đề xuất một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tác phẩm ngữ văn trong nhà trường phổ thông qua việc tạo không khí đối thoại trong quá trình lĩnh hội tác phẩm văn học của học sinh ở cấp học trung học phổ thông đúng theo tinh thần đổi mới trong hoạt động dạy và học văn hiện nay, mong rằng sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực. Với vốn kinh nghiệm ít ỏi và thời gian có hạn, khó tránh khỏi những khiếm khuyết trong quá trình thực hiện. Mong rằng các đồng chí, đồng nghiệp sẽ có nhiều ý kiến đóng góp để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Quá trình dạy học văn vốn phong phú và phức tạp. Mỗi tác phẩm là một sinh mệnh riêng, một sáng tạo độc đáo, là con đẻ tinh thần của nghệ sĩ, là tiếng nói nghệ thuật về thế giới tinh thần hoặc về hiện thực cuộc sống. Giờ học đối thoại xét về bản chất chính là quá trình tổ chức mối quan hệ giao tiếp nghệ thuật giữa ba chủ thể này nhằm giải phóng tiềm năng sáng tạo cho giáo viên và học sinh thoát khỏi những công thức gò bó đi ngược quá trình vận động đổi mới. Đối thoại phải được tổ chức hợp lí trong một kết cấu chặt chẽ, uyển chuyển linh hoạt theo lôgíc của quá trình tiếp nhận. Đối thoại phải được xây dựng từ hệ thống tình huống học tập đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với tầm đón nhận của học sinh. Thông qua đối thoại, chủ thể học sinh sẽ tự bộc lộ quá trình nhận thức, tình cảm, quan điểm, vốn sống, năng lực, bản lĩnh. Thầy có điều kiện để dẫn dắt học sinh từng bước chiếm lĩnh tác phẩm một cách hứng thú và hoàn thiện nhân cách. Tổ chức giờ học đối thoại sẽ bảo đảm không khí dân chủ cởi mở trong môi trường sư phạm, tạo không khí văn chương, có ý nghĩa tích cực tạo hiệu quả cao cho giờ dạy. Song không nhìn nhận kiểu giờ học này biệt lập với các giờ học khác. Vấn đề đặt ra là phải biết phối hợp đồng bộ giữa sáng tạo năng động của chủ thể học sinh với yêu cầu định hướng sư phạm của giáo viên. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu và xây dựng hệ thống câu hỏi ở mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng trong chủ đề “Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại”. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Vận dụng kiến thức tiếp thu từ các chuyên đề do Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT triển khai để xây dựng hệ thống câu hỏi theo các mức độ nhận biết của học sinh. - Kết hợp nghiên cứu hệ thống câu hỏi trong môn Ngữ văn qua Sách tham khảo, qua các đề thi THPT Quốc Gia. - Từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi trong chủ đề “Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại” theo một số bước sau: 1. Bước 1: Xác định nội dung chủ đề. - Xác định những nội dung quan trọng trong chủ đề. - Đối chiếu mục tiêu, chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình và nội dung SGK môn Ngữ văn THPT với mục tiêu và nội dung dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh . 2. Bước 2: Xác định mục tiêu và hình thức của đề kiểm tra. - Mục tiêu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là theo định hướng đánh giá năng lực học sinh. - Với điều kiện thực hiện ở trường phổ thông hiện nay thì phương pháp kiểm tra, đánh giá chủ yếu là kiểm tra viết và hình thức kiểm tra, đánh giá kết hợp giữa các câu hỏi trắc nghiệm với các câu hỏi tự luận. 3. Bước 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi trong nội dung chủ đề. Sau khi xác định được nội dung, mục tiêu bài học giáo viên nghiên cứu rồi xây dựng hệ thống câu hỏi. Nội dung câu hỏi phải bám sát với nội dung của bài học, đảm bảo tính giáo dục cao, trang bị kĩ năng sống cho học sinh và giúp các em có thể trả lời nhanh, chính xác. Thông qua đó có thể phân hoá được đối tượng học sinh một cách tốt nhất. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN : Phương pháp có vai trò rất quan trọng trong đời sống, trong nghiên cứu khoa học. Nó tồn tại trong lí luận và trong thực tiễn cuộc sống, nó là công cụ, vừa là động lực sáng tạo ra cái mới. Dạy và học cũng là một khoa học, nó đòi hỏi có phương pháp riêng phù hợp với quá trình giảng dạy, và học sinh do giáo viên hướng dẫn nhờ đó mà lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng nhằm từng bước tự hoàn thiện về nhân cách. Trước hết chúng ta cần phải hiểu phương pháp là gì? Phương pháp được hiểu một cách chung nhất là con đường, cách thức để đạt được mục đích. Phương pháp dạy học văn nghiên cứu bản chất của quá trình dạy học văn, chỉ ra phương pháp (cách thức) tiếp nhận văn học có hiệu quả nhất nhằm phát huy được vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. So với các môn khoa học khác trong nhà trường, môn văn là môn học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Văn chương vốn có khả năng đi sâu vào tâm hồn người đọc. Nó lắng đọng kết tinh trong tâm hồn, giúp hiểu con người, hiểu cuộc sống và khát vọng vươn tới cái Chân- Thiện- Mĩ. Do vậy, đổi mới phương pháp dạy học môn văn không chỉ là đổi mới cách đánh giá, xem xét mối quan hệ giữa giáo viên, học sinh với tác phẩm văn chương, mà quan trọng là đổi mới phương pháp, biện pháp dạy học của giáo viên. Thực tế giảng dạy các tác phẩm văn chương ở các nhà trường cho chúng ta thấy học sinh chưa thực sự hứng thú học các giờ Ngữ văn, đôi khi giáo viên còn thấy lúng túng khi dạy một tác phẩm có sức lôi cuốn. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy các tác phẩm văn chương. Thực tế nữa cho thấy, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Bộ GD & ĐT triển khai nhiều năm nay cùng với việc thay sách giáo khoa để tiện cho việc tích hợp kiến thức của giáo viên và học sinh. Nhưng là một giáo viên dạy nhiều năm, chúng tôi thấy rất rõ kết quả của việc áp dụng phương pháp mới vào dạy học chưa thực sự có kết quả. Xuất phát từ những yêu cầu của quan điểm dạy học văn hiện đại trên, cũng như những đặc trưng của bộ môn, tôi cho rằng muốn nâng cao chất lượng giờ dạy học tác phẩm văn học thì cần phải tổ chức được những giờ dạy tác phẩm theo tinh thần đối thoại. Bởi vì chỉ có trong đối thoại và bằng đối thoại mới có thể giải quyết được những giờ dạy học văn nhàm chán đã nêu, kích thích óc sáng tạo của học sinh để học sinh thực sự đóng vai trò trung tâm trong giờ học tác phẩm văn chương. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN: Qua thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông, một vấn đề đặt ra đối với cả thầy và trò là việc tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm văn học còn gặp phải nhiều khó khăn. - Về phía thầy: Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học văn không ngừng được cải tiến, tuy nhiên vẫn còn chịu ảnh hưởng của phương pháp dạy truyền thống mang tính chất thuyết giảng. Việc nêu câu hỏi trong giờ dạy đã được chú ý hơn nhưng các câu hỏi trong giờ giảng văn thường mang tính chất vụn vặt, chưa có tính hệ thống, chưa phát huy được tính sáng tạo của chủ thể học sinh trong việc chiếm lĩnh tác phẩm. - Về phía học sinh: Nhìn một cách khách quan, hiện nay học sinh có tâm lí chung là ngại học bộ môn Văn. Tâm lí thụ động, trông chờ vào sự truyền thụ kiến thức của thầy vẫn còn phổ biến, dẫn tới tình trạng học vẹt, thầy đọc trò chép, làm cho tác phẩm văn học trở nên khô cứng, chưa thực sự thâm nhập vào học sinh. Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là phải làm gì để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đó trong từng tiết học. Nhận thức rõ những vấn đề cụ thể của riêng sách giáo khoa nhằm đảm bảo tốt kết quả giảng dạy, tôi đã nhận thức được hệ thống văn bản và ý đồ nâng cao chất lượng văn bản của sách giáo khoa Ngữ văn THPT qua việc đọc và hiểu văn bản.Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung phương pháp tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm văn học được chọn giảng trong nhà trường phổ thông, nhằm giúp người thầy tìm ra được những phương pháp giảng dạy tích cực, khoa học theo hướng đổi mới. Đối với học trò khi đã nắm được phương pháp học tập, hiểu văn bản kĩ hơn sâu hơn sẽ tạo được niềm hứng thú say mê trong học tập, khơi dậy tính tích cực chủ động sáng tạo, dần dần làm thay đổi phương pháp học cũ “thầy đọc- trò chép” mang tính thụ động. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1.Tạo không khí dân chủ trong giờ dạy học văn. Trong giờ dạy học, tác phẩm văn học như một đối tượng nhận thức thẩm mĩ, một phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho học sinh cần phải được hiểu trong quá trình giao tiếp. Có như thế, bạn đọc- học sinh- mới tiếp thu được những giá trị tinh thần mà người nghệ sĩ đã sáng tạo nên. Tác phẩm chỉ có thể trở thành tài sản của các em trong mối liên hệ trực tiếp với tiếng nói trữ tình hay quan điểm, thái độ, tư tưởng của nhà văn thông qua các hình tượng nghệ thuật dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tức giáo viên phải là người bắc cầu nối giữa văn bản và học sinh. Người giáo viên trong giờ dạy học phải xây dựng được mối quan hệ liên chủ thể giữa nhà văn, giáo viên và học sinh thông qua văn bản văn chương, phải thực hiện được sự đối thoại tay ba giữa ba chủ thể. Người giáo viên phải tạo ra sự hoà đồng giữa hai quá trình tác động của văn bản và sự tiếp nhận các tác động thẩm mĩ của văn bản ở học sinh. Chính vì vậy, thực chất của giờ dạy học tác phẩm văn chương là phải nhằm tổ chức được hoạt động giao tiếp nghệ thuật giữa các chủ thể trong môi trường sư phạm theo qui luật của quá trình tiếp nhận văn chương. Tạo không khí dân chủ trong giờ học văn chính là xác lập một mối quan hệ bình đẳng, cởi mở, tự do sáng tạo trong quan hệ giao tiếp với tác phẩm của chủ thể học sinh, là xác lập ở các em tư cách bạn đọc sáng tạo đối thoại với tác phẩm. Bầu không khí dân chủ là tiền đề kích thích sự hăng hái, sáng tạo ở các em để cùng trao đổi, thảo luận với giáo viên, với bạn bè về cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm, cách biểu đạt, phản ánh, xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, bộc lộ những đánh giá, nhận thức, quan điểm, xúc cảm về tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Thông qua đối thoại dân chủ, giáo viên hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung sự cảm thụ của các em tác động hình thành nên những trí tuệ mới, phẩm chất mới ở học sinh, để các em là một chủ thể tiếp nhận chủ động chứ không phải là một thực thể thụ động. Các em không những phát triển về mặt văn học mà còn được phát triển về nhiều mặt như bộc lộ nhân cách, trau dồi khả năng giao tiếp nghệ thuật. Không khí dân chủ trong giờ học văn phải được xác lập trên cơ sở ý thức sâu về tính sư phạm của giáo viên trong tổ chức tiến hành phải phù hợp với yêu cầu nội tại của tác phẩm và sự vận động trí tuệ, tình cảm, vốn kinh nghiệm của học sinh. Đó phải là không khí cởi mở thực sự chứ không phải là không khí giả tạo. Ở đó, năng lực tiếp nhận của từng em có điều kiện bộc lộ, cọ xát qua trao đổi để tự điều chỉnh nhằm phù hợp với hệ thống chuẩn giá trị mang ý nghĩa xã hội. Giờ dạy phải có sức hấp dẫn, thuyết phục cao từ chính cái đẹp trong văn bản, hấp dẫn và say mê người học. Tức người thầy phải biết gợi, biết mở ra những điều bí ẩn sau câu, chữ, hình ảnh nằm chết cứng trên trang giấy để chúng lên tiếng đối thoại với từng học sinh. Đây là quá trình giáo viên hoá thân vào văn bản, sáng tạo lại văn bản thành tác phẩm sinh động, có hồn. Tạo không khí dân chủ trong giờ học văn chương đòi hỏi giáo viên phải xử lí nhiều mối quan hệ phức tạp. Không thể chỉ hiểu sâu sắc tác phẩm là đủ mà còn phải dự kiến những tình huống tiếp nhận nảy sinh trong cách bộc lộ đối thoại giao tiếp với tác phẩm của học sinh nhằm định hướng trong việc sử dụng các phương pháp, biện pháp tổ chức hoạt động tiếp nhận cho các em một cách linh hoạt, phối hợp có hiệu quả các phương pháp, biện pháp tác động như đọc, tái tạo gợi mở sao cho có trật tự lô gíc tạo điều kiện cho các em tham gia vào các tình huống đầy sáng tạo với tác giả, tự thể nghiệm, đồng cảm, tự thanh lọc về tâm hồn trong bước tiếp nhận. 2. Xây dựng các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, phát hiện các tình huống có vấn đề trong tác phẩm nhằm kích thích hứng thú tìm hiểu, khám phá của học sinh 2.1. Hệ thống câu hỏi gợi mở Có thể dựa vào một số vấn đề then chốt về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm giúp học sinh khắc sâu và nâng cao năng lực cảm thụ ban đầu. Từng câu hỏi là một “dấu hiệu” có tính chất chi tiết và bị phân hướng vào nội dung cơ bản của tài liệu. Hệ thống câu hỏi không chỉ phục vụ cho hoạt động trí tuệ để học sinh tự lĩnh hội tri thức phù hợp với đặc trưng bộ môn nghệ thuật. Những câu hỏi gợi mở vừa hấp dẫn về mặt nội dung vấn đề nêu ra vừa phải có ý nghĩa nghệ thuật và hình thức mới. Bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở, giúp các em tự mình cảm thụ cái hay, cái đẹp trong văn chương, tự mình có thói quen và khả năng phát hiện, chiếm lĩnh tri thức từ những tài liệu học trong nhà trường hay đọc ngoài nhà trường. 2.2. Các câu hỏi nêu vấn đề. Dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy trí tuệ sáng tạo của học sinh. Các phương pháp dạy học văn ứng với ba giai đoạn tiếp cận- đi sâu, tổng hợp và khái quát. Cái quí nhất đối với người học sinh chưa phải là kết luận về hiện thực mà là con đường dẫn tới những kết luận đó. Phương pháp dạy học văn là con đường vạch ra hình thức tồn tại của nội dung. Con đường hình thành nhân cách và lĩnh hội tri thức phải thông qua sự vận động tự nhiên của chủ thể học sinh. Dạy học nêu vấn đề là dựa vào những qui luật của tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Trong dạy học truyền thống, chỗ hạn chế nhất là thói quen đưa đến cho người học những kiến thức có sẵn và người học chỉ còn tiếp nhận một cách thụ động và rồi ghi nhớ, ghi nhớ để rồi lặp lại. Trong dạy học nêu vấn đề, kiến thức không đưa đến dưới hình thức có sẵn mà thông qua tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh. Tình huống có vấn đề: Là trạng thái tâm lí nảy sinh trước khó khăn về trí tuệ mà con người ta không thể giải thích hoặc hành động bằng kiến thức cũ, phương thức cũ. Là tình huống trong đó chủ thể cảm thấy có cái khó trong nhận thức hay nói cách khác có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã biết và cái chưa biết, đồng thời chủ thể có mong muốn giải quyết mâu thuẫn bằng cách huy động những cái đã biết tạo ra phương thức hành động mới để đạt được hiểu biết mới. Muốn có tình huống có vấn đề cần có ba thành tố liên quan chặt chẽ với nhau: + Cái chưa biết: Đó là tri thức mới, cách thức hành động mới mà học sinh cần phát hiện và chiếm lĩnh. + Nhu cầu nhận thức của chủ thể. + Khả năng có thể chiếm lĩnh cái chưa biết của chủ thể. Cơ chế của quá trình này: Giáo viên đặt vấn đề- học sinh tri giác- giáo viên tổ chức quá trình giải quyết vấn đề. Kết quả là học sinh nắm kiến thức, phương thức giải quyết và phương pháp nhận thức khoa học. Tình huống có vấn đề sẽ có tác dụng lôi cuốn học sinh vào quá tình tư duy. Một bài văn, một tác phẩm văn học, số phận nhân vật chỉ trở thành đối tượng suy tư của mỗi người khi chính người đó nhận ra trong đó một tình huống, một vấn đề, một tâm trạng có liên quan đến suy nghĩ hay rung động của mình. Một giờ dạy văn muốn thành công nhất thiết phải xây dựng được một hay những tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức. Như vậy, người giáo viên phải là người nêu nên được những tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề nhằm gợi sự hứng thú của học sinh. Ở đây chúng ta cần phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi tái hiện: Câu hỏi trong hoạt động tái hiện thường vụn vặt, rời rạc, xa lạ với quan điểm hệ thống vốn là một đặc trưng của khoa học hiện đại. Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một nội dung rộng lớn bao gồm một khối lượng tư liệu rộng rãi. Nó mang tính tổng hợp bao gồm nhiều mối liên hệ giữa các yếu tố, sự kiện nhằm sáng tỏ quan điểm chung của tác giả trong tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung. Nó gợi lên mối mâu thuẫn giứa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái cũ với cái mới trong nhận thức của học sinh với tác giả, giữa học sinh với nhau về một vấn đề trung tâm trong tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn đề phải vạch ra được mối quan hệ hữu cơ giữa những yếu tố cụ thể với những quan điểm kép của bài văn, của tác phẩm như chủ đề, quan điểm tác giả, tác dụng, ý nghĩa tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn đề phải mang tính hệ thống liên tục nhằm dẫn dắt học sinh từng bước khám phá tư tưởng, ý đồ nghệ thuật của tác giả, câu sau bổ sung cho câu trước làm thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề. Câu hỏi phải sát hợp với tác phẩm văn học, khêu gợi được hứng thú của bản thân học sinh. Giáo viên phải cân nhắc để câu hỏi vừa phản ánh được bản chất của tác phẩm, vừa nằm trong tầm cảm nghĩ của học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề được đặt ra thông qua sự đối thoại giữa giáo viên và học sinh, trong không khí tự do, dân chủ trình bày quan điểm khoa học của học sinh. 3. Hướng dẫn học sinh đối thoại trong hoạt động phân tích. Đối tượng của hoạt động phân tích là văn bản, phân tích hình tượng, phân tích kết cấu, nội dung, nghệ thuật tác phẩm, phân tích tính cách nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, tâm trạng, phân tích tình huống truyện, lời kể, nhân vật tác giả (người dẫn truyện hoặc chủ thể trữ tình), phân tích đoạn văn, đoạn thơ, hình ảnh, biện pháp tu từ, thời gian, không gian nghệ thuật, tính chiến đấu, giá trị nhân đạo, cái bi, cái hài. Tức là đối tượng các hoạt động phân tích rất đa dạng phong phú. Thông qua đối thoại tiến hành hoạt động phân tích nhằm thực hiện các nhiệm vụ: + Không dừng lại ở nhận thức câu từ mà là nhận thức lí tính ở học sinh. + Đây là hoạt động có chủ đích nên giáo viên phải hướng cho học sinh đến phân tích cái gì, phân tích như thế nào? + Thông qua phân tích giúp học sinh khám phá chiều sâu nội dung, tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Tiến trình phân tích theo hai con đường cơ bản là qui nạp hoặc phân tích. Tuỳ từng tác phẩm mà giáo viên vận dụng linh hoạt để giúp các em chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động. 4. Hướng dẫn học sinh đối thoại trong hoạt động bình mở rộng nâng cao. - Hoạt động này giúp học sinh nắm bắt được quan niệm, cách bộc lộ thái độ, quan điểm của nhà văn về thế giới và con người. Nắm bắt được nội dung triết lí, tư tưởngcủa tác giả là bước quan trọng nhằm nâng cao trình độ tiếp nhận cho học sinh ở cấp độ khái quát. - Ở đây, việc tổ chức đối thoại phải được thực hiện trong việc nắm bắt tác phẩm ở cấp độ cao hơn: Cấp độ chủ thể trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ thuật và thấy được cái hay, cái đẹp, cái tài năng nghệ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phat_huy_tinh_chu_dong_tich_cuc_cua_hoc_sinh_trong_gio.doc