SKKN Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 – Phần 1
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang bước vào giai đoạn khẩn trương, để đẩy nhanh tiến độ và đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có những con người bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Người có học vấn hiện đại không chỉ lấy ra từ trí nhớ các tri thức dưới dạng có sẵn đã lĩnh hội được trên ghế nhà trường, mà còn phải có khả năng chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách độc lập, có năng lực đánh giá các sự kiện, hiện tượng mới, các thông tin một cách thông minh, sáng suốt khi gặp trong cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Nếu chúng ta vẫn duy trì cách học cũ theo lối “đọc – chép” một cách thụ động, thì chắc sản phẩm của giáo dục sẽ khó đạt được yêu cầu trên.
Điều 28, chương II – Luật Giáo dục 2005 đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh: phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng khả năng tự học, khả năng tự làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Để thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi PPDH của tất cả các môn học phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS.
GDCD là môn học có vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học; giáo dục đạo đức lối sống; truyền đạt các kiến thức kinh tế – xã hội, chủ trương chính sách, pháp luật của nhà nước. Đây là những tri thức đặc biệt quan trọng hình thành nên phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 – Phần 1 Người thực hiện: Lê Thị Thủy Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực môn GDCD THANH HÓA, NĂM 2016 Mục Lục Mục Lục Trang I. Mở đầu 3 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Mục đích nghiên cứu 4 3. Đối tượng nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu II. Nội dung 5 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 5 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 7 8 15 20 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang bước vào giai đoạn khẩn trương, để đẩy nhanh tiến độ và đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có những con người bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Người có học vấn hiện đại không chỉ lấy ra từ trí nhớ các tri thức dưới dạng có sẵn đã lĩnh hội được trên ghế nhà trường, mà còn phải có khả năng chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách độc lập, có năng lực đánh giá các sự kiện, hiện tượng mới, các thông tin một cách thông minh, sáng suốt khi gặp trong cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Nếu chúng ta vẫn duy trì cách học cũ theo lối “đọc – chép” một cách thụ động, thì chắc sản phẩm của giáo dục sẽ khó đạt được yêu cầu trên. Điều 28, chương II – Luật Giáo dục 2005 đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh: phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học; bồi dưỡng khả năng tự học, khả năng tự làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Để thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi PPDH của tất cả các môn học phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS. GDCD là môn học có vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học; giáo dục đạo đức lối sống; truyền đạt các kiến thức kinh tế – xã hội, chủ trương chính sách, pháp luật của nhà nước. Đây là những tri thức đặc biệt quan trọng hình thành nên phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa. GDCD lớp 10 là một chương trình với nhiều nội dung khó, trừu tượng, có tính thực tiễn cao: bao gồm những kiến thức cơ bản nhất của triết học Mác - Lênin trong phần: “Công dân với việc hình thành thế giới quan phương pháp luận khoa học” và các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa trong phần: “Công dân với đạo đức”. Lượng kiến thức lớn đó chỉ được học trong 45 phút mỗi tuần, nên rất khó để HS có thể tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn nếu không đổi mới cả cách dạy và học trên nhà trường. Vậy nên, không khó để giải thích vì sao hiện nay, phần lớn HS rất thiếu hiểu biết và thụ động khi nhìn nhận, đánh giá những sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống. Hơn nữa, một thực tế diễn ra hiện nay mà xã hội rất quan tâm là có rất nhiều HS, đặc biệt là HS trung học đang xem nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Số HS trốn học, gian lận trong thi cử, đánh nhau, uống bia rượu, ăn cắp vặt, vô lễ, vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng. Theo kết quả điều tra khảo sát của Viện nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam năm 2008 cho thấy, tỉ lệ nói dối cha mẹ của HS THCS là 50%, trong khi HS THPT là 64%; văng tục chửi bậy ở THCS là 34%, trong khi đó HS THPT là 43%; không chấp hành Luật an toàn giao thông của HS THCS là 35%, còn THPT là 70%. Một trong những nguyên nhân đó là do việc giáo dục đạo đức trong nhà trường thường chú trọng đến nề nếp, kỉ cương, nội quy, những bài học giáo huấn, mà không chú ý đến hành vi, kĩ năng ứng xử thực tế. Phương pháp giáo dục đạo đức theo kiểu “tầm chương trích cú” chưa đưa HS vào các xử lí tình huống thực tế rất sinh động của cuộc sống, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của họ. Mặt khác, HS THPT, đặc biệt là HS lớp 10 là lứa tuổi mới lớn về tâm, sinh lý. Các em luôn muốn khám phá những tri thức mới, những vấn đề mới, luôn muốn thử nghiệm những điều được tiếp nhận để khẳng định chính bản thân mình. Chính vì vậy, PPDH nói chung và môn GDCD nói riêng phải hướng tới mục tiêu phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS để phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi. Trường THPT Nguyễn Thị Lợi được xây dựng và trưởng thành ở Thị Xã du lịch, bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế thị trường, cũng có những mặt hạn chế như sự suy thoái về đạo đức , văn hóa, lối sống Vì vậy nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là đào tạo ra những thế hệ HS vừa có đức, vừa có tài; tích cực, chủ động sáng tạo trong lĩnh hội tri thức cũng như trong đánh giá giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Môn GDCD, đặc biệt là GDCD lớp 10 góp phần quan trọng làm nên mục tiêu đào tạo đó của nhà trường. Với tính cấp thiết trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 2. Mục đích nghiên cứu - Hiện nay chất lượng dạy học môn GDCD trong nhà trường THPT hiện nay đã và đang được học sinh xem như một môn học phụ. Nguyên nhân là do một mặt trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học, chưa áp dụng thường xuyên các phương tiện dạy học hiện đại nên môn học trở nên nhàm chán và khô khan. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học người giáo viên cần phải phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân 10 – Phần 1: “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận”. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu ở phạm vi phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi – Thị xã Sầm Sơn. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành 2 nhóm phương pháp nghiên cứu: Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá. Nhóm phương pháp thực nghiệm: Gồm chuẩn bị thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm, xử lí kết quả điều tra thực nghiệm và đưa ra kết luận khoa học. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Trong một môi trường thế giới đầy biến động và cạnh tranh gay gắt đến với từng cá nhân như hiện nay. Mỗi cá nhân sẽ cần phải ngày càng trở nên năng động, tích cực, tự tin, quyết đoán hơn, sẽ không còn chỗ cho sự thụ động, trông chờ, ỷ lại, sẽ không còn chỗ làm việc ổn định để mà dựa dẫm. Xu hướng của những yêu cầu quan trọng đối với người lao động hiện nay và trong tương lai không phải là kinh nghiệm, học vấn hiểu theo nghĩa được đào tạo học thuật tại trường, lớp mà là năng lực sáng tạo, nghĩa là năng lực tiếp thu, sản xuất tri thức mới có lợi của người lao động. Một người lao động trong tương lai phải là một người ngoài việc trang bị đủ những kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết, còn phải có những phẩm chất cá nhân cao như: có “kỹ năng sống” tốt và có “sức mạnh tinh thần” cao, bao gồm khả năng loại bỏ stress ra khỏi công việc và cuộc sống trong lúc đang làm việc, hoạt động; khả năng làm chủ bản thân, khả năng quản lí cảm xúc, khả năng quản lí thói quen, hành vi; khả năng lãnh đạo và tự lãnh đạo, khả năng làm việc độc lập, khả năng phối hợp theo nhóm, khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định, khả năng giao tiếp và trình bày vấn đề, kỹ năng sử dụng kiến thức; khả năng vượt khó và ứng biến linh hoạt với các tình huống xẩy ra trong thực tế cao; có sự chủ động trong công việc, có sự quyết đoán và tinh thần lạc quan, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có khả năng chịu đựng áp lực công việc, có tư duy lôgíc, tư duy phản biện tốt và thoát khỏi sự bảo thủ cố chấp, chi phối của cái tôi trong mỗi con người. Tất cả những kỹ năng đó của một người lao động mới phải được hình thành từ từ trong cuộc sống đặc biệt là trong quá trình học tập ở nhà trường trên cơ sở những PPDH tích cực mà GV sử dụng để phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS. Cũng trong thời đại hiện nay, HS lớp 10 có vốn sống và năng lực nhận thức phát triển hơn so với độ tuổi. Trong môi trường xã hội và khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, người HS thường xuyên tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ các phương tiện truyền thông khác nhau và luôn luôn chịu ảnh hưởng tác động từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội; từ các tổ chức đoàn thể; từ bạn bè và những người thân. Trong quá trình sống và tham gia tích cực vào các loại hình hoạt động, giao lưu, chính bản thân các em đã tích luỹ ngày càng nhiều vốn sống và kinh nghiệm hoạt động cho bản thân. Kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học trên thế giới và trong nước những thập niên gần đây cũng khẳng định điều đó. "So với trẻ cùng lứa tuổi ở các thế hệ trước, học sinh phổ thông hiện nay có năng lực nhận thức phát triển hơn. Do ảnh hưởng của giáo dục, với hệ thống các phương pháp tích cực, dạy học có tác dụng thúc đẩy sự phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh, đã tạo nên sự biến đổi trong nhận thức của các em, giúp cho khả năng tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng của các em đều được phát triển". Thực tiễn dạy học ở các trường THPT nước ta hiện nay đã chứng tỏ điều đó. Từ những vấn đề trình bày ở trên, trong quá trình dạy học hiện nay, GV cần quan tâm khai thác vốn sống phong phú và đa dạng của HS và tính đến khả năng nhận thức của các em, không ngừng đổi mới nội dung, cải tiến phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy học để có thể dạy cho các em biết phát huy tối đa tiềm năng và vốn sống của mình. Trong quá trình học tập, HS lớp 10 có xu hướng vượt ra khỏi nội dung tri thức, kỹ năng do chương trình quy định. "Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt cuộc sống, hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây mấy chục năm". Xu hướng này thể hiện ở chỗ, các em HS không thoả mãn với những điều đã được học theo chương trình mà muốn làm phong phú vốn hiểu biết của mình bằng cách tự học, tự nghiên cứu để tìm tòi, phát hiện cái mới. Nhất là đối với HS THPT, các em muốn tìm những tri thức và phương pháp mới đối với bản thân các em. Cụ thể là, trong quá trình học tập, các em luôn mong muốn được học thêm, mở rộng, đào sâu kiến thức trong các bài học, trong sách báo, muốn tìm hiểu thực tế để làm sáng tỏ những điều đã học, muốn tìm hiểu và phát hiện vấn đề bằng nhiều cách khác nhau nhằm chọn được các phương án tối ưu, muốn vận dụng những hiểu biết của mình vào thực tiễn. Xu hướng này xuất hiện do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến từng HS trong cuộc sống, học tập, lao động ở nhà trường, gia đình và xã hội. Trước hết là vì năng lực nhận thức của các em không ngừng được nâng cao, nhu cầu nhận thức ngày càng phát triển nên không thoả mãn với nội dung học tập do chương trình quy định. Mặt khác, còn do những yếu tố khách quan như: sự tiến bộ khoa học công nghệ; sự bùng nổ thông tin được phản ánh qua sách báo và phương tiện thông tin; ảnh hưởng của đời sống xã hội; nhu cầu hành trang để lập thân, lập nghiệp trong tương lai; những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của thế hệ trẻ. Để đáp ứng xu hướng trên trong quá trình dạy học, GV phải biết cách tổ chức dạy học một cách linh hoạt, với sự kết hợp khéo léo các PPDH, các hình thức tổ chức vui chơi, giao lưu, gặp gỡ tạo điều kiện cho HS kiểm nghiệm và mở mang vốn hiểu biết của mình, giúp chúng thích ứng nhanh nhạy với cuộc sống sau này. HS THPT (độ tuổi 16 – 18) ham hiểu biết, có trình độ tư duy phát triển, đã hình thành và phát triển các kĩ năng học tập, thói quen tự học từ các lớp dưới. Căn cứ vào quy luật phát triển nhận thức và hình thành các đặc điểm tâm lí thì từ những lớp cuối cấp THCS, HS đã bộc lộ thiên hướng, sở trường và hứng thú đối với những lĩnh vực kiến thức, kĩ năng nhất định. Một số HS bộc lộ khả năng ham thích toán học, các môn khoa học tự nhiên; số khác lại thích thú văn chương và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Ngoài ra còn có những HS thể hiện năng khiếu trong các lĩnh vực như: nghệ thuật, thể dục thể thao. Nếu giáo dục theo kiểu đồng loạt hiểu theo nghĩa là chỉ với một chương trình duy nhất, cách tổ chức dạy học duy nhất sẽ làm hạn chế đến sự phát triển nói trên của người học. Như vậy ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức và phát triển kỹ năng. Đó là yêu cầu đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung và cho môn GDCD nói riêng. Người GV trong quá trình dạy học phải làm thế nào để khơi dậy những điểm mạnh vốn có của HS: đó là sự ham học hỏi, muốn khám phá bản thân và thế giới, tính độc lập, sáng tạo Đồng thời, trong quá trình đó người GV cũng cần khéo léo, linh hoạt tổ chức các hoạt động dạy học để vừa thu hút các em tham gia nhưng cũng vừa không làm tính tự ái – một đặc điểm thuộc tâm, sinh lí của lứa tuổi này bị ảnh hưởng. Để có một cách dạy học phù hợp với đặc điểm HS lớp 10 như trên thì người GV tất yếu phải đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình dạy học. Bởi chỉ có hướng đổi mới này mới phát huy những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu về tâm sinh lí của HS THPT, đem lại hiệu quả dạy học cao nhất. 2. Thực trạng dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi. Do đầu vào của HS ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi có điểm tuyển sinh gần như thấp nhất tỉnh nên các em chưa có ý thức cao trong học tập và rèn luyện, các em chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn ngay từ đầu vào, đa số học sinh là con em nghề biển, làm thợ, buôn bán nhỏ, kinh doanh du lịch, một bộ phận cũn lại bố mẹ đi làm ăn xa nhà.Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ huynh học sinh chưa đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay. Phụ huynh học sinh chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo dục HS chưa rõ ràng, chưa thống nhất với nhà trường. Giáo dục học sinh ở gia đình mang tính áp đặt, ít để học sinh thể hiện quan điểm của mình, sử dụng mệnh lệnh, roi vọt, và thiếu làm gương tốt cho học sinh noi theo. Nhu cầu về kinh tế, mưu sinh được quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập “ Lo cái ăn trước rồi đến cái học”. Bên cạnh các tệ nạn xã hội, những thói quen xấu vẫn tồn tại khá phổ biến và những bất cập khác. Khu vực gần trường có nhiều tụ điểm vui chơi thiếu lành mạnh tác động không ít đến việc giáo dục đạo đức hoc sinh, các em dễ bị lôi kéo vào những việc làm sai lệch chuẩn mực đạo đức kể cả vi phạm pháp luật. Điều kiện về cơ sở vật chất cũng nhiều khó khăn, đồ dùng dạy học cho bộ môn còn quá ít. Tình hình học sinh vô lễ, gây gỗ, đánh nhau vẫn còn tồn tại. Một số học sinh chưa tích cực, chủ động học tập, luôn nghĩ môn giáo dục công dân là môn phụ, chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của bộ môn. Từ những thực trạng nêu trên tôi đó mạnh dạn đưa ra một một số phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị theo hướng đi của riêng mình nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng bộ môn GDCD trong trường THPT hiện nay. 3. Các giải pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 10 3.1 . Khuyến khích tự học ở nhà thông qua đọc tài liệu và làm bài tập Xã hội ngày càng phát triển với sự bùng nổ của thông tin, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, lượng kiến thức cần cập nhật ngày càng nhiều đòi hỏi con người phải học hỏi và tiếp nhận. Chính vì vậy, chỉ có học tập trong nhà trường, trên lớp học thôi chưa đủ mà điều cốt lõi là con người phải tự học. Chúng ta không thể nhồi nhét tất cả tri thức đó cho HS mà phải dạy cho HS phương pháp học và lĩnh hội kiến thức phù hợp, trao lại quyền chủ động học tập cho HS. Trong các phương pháp học tập thì tự học là một phương pháp quan trọng để chiếm lĩnh được lượng kiến thức rộng lớn đó. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động. Tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo thành công trong học tập, nhất là đối với những môn kiến thức trừu tượng như GDCD lớp 10. Tự học cũng là một trong những PPDH rất phù hợp với đối tượng HS có năng lực nhận thức cao như HS trường Phan Bội Châu. Trong quá trình dạy học, GV phải biết khuyến khích năng lực tự học của HS. Trước hết, đó là năng lực tự học ở nhà thông qua đọc tài liệu và làm bài tập. Tuy nhiên tự học ở nhà cũng phải có phương pháp phù hợp, đó là phải bắt đầu từ việc tự học trên lớp. Không thể tách rời việc học ở lớp với việc học ở nhà. Trên lớp học, phải biết chú ý lắng nghe lời thầy giảng, tập trung tư tưởng theo dõi một cách không thụ động, biết đề xuất những thắc mắc, những chỗ chưa hiểu được rõ để thầy giải đáp, cùng với người thầy xây dựng bài giảng. Thầy chú ý phát huy năng lực trí tuệ của trò, trò biết tự phát huy để hưởng ứng, tức trò chính là chủ thể của quá trình dạy học, trò không phải nhân vật tiếp thu thụ động, máy móc. Đây cũng chính là kinh nghiệm, bí quyết của các HS giỏi, của các thủ khoa ở trường. Chúng ta thường thấy có những HS, sinh viên con nhà nghèo về nhà thường phải làm việc giúp đỡ gia đình nhưng vẫn học giỏi chính là đã biết cách học như trên, họ đã hiểu bài, thuộc bài ngay tại lớp. Thời gian tự học ở nhà cũng rất quan trọng, đây là lúc HS có nhiều suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy giải đáp, suy nghĩ, liên hệ hoặc vận dụng vào thực tiễn. Đây cũng là cách để tri thức khắc sâu vào bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác Hồ luôn nhắc nhở. Vậy tự học ở nhà là phải học những cái gì? Đó chính là làm bài tập và đọc tài liệu. Làm bài tập ở nhà sẽ giúp cho HS hiểu sâu hơn kiến thức đã học trên lớp, đồng thời rèn luyện cho các em kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn thông qua các bài tập tình huống. Quan trọng hơn, làm bài tập ở nhà sẽ rèn luyện cho HS phương pháp tự học – một điều đặc biệt cần thiết ở thời đại ngày nay. Đối với môn GDCD lớp 10, bài tập có ngay sau phần nội dung bài học. Trước khi kết thúc bài giảng, trong bước “Hoạt động tiếp nối”, GV phải dành trọn thời gian để hướng dẫn HS tự học ở nhà, giao những bài tập các em cần phải làm trong SGK, khuyến khích làm thêm những bài tập trong sách tình huống, hoặc những bài tập GV tự ra. Nhiều HS trường THPT Phan Bội Châu còn xem GDCD là “môn phụ” nên ý thức tự giác làm bài tập của những em này chưa cao, có thể các em không làm hoặc làm không hết và làm theo kiểu đối phó. Vì vậy GV phải có cách làm phù hợp để kiểm tra các em: Trường Phan Bội Châu vì sĩ số HS ít nên GV có thể kiểm tra ý thức làm bài tập của các em thông qua các giờ hỏi bài cũ. Trung bình mỗi tiết giảng cố gắng hỏi bài cũ 2 HS, điểm sẽ là kết quả của việc trả lời bài cũ và làm bài tập ở nhà. Như vậy sau một kì học, GV có thể kiểm tra hầu hết HS trong lớp về ý thức, thái độ của việc tự học thông qua làm bài tập. Tuy nhiên, đối với lớp học có sĩ số đông, phương pháp trên không thể tiến hành với mọi HS, GV có thể vừa tiến hành như cách trên, vừa thực hiện theo hình thức: những HS chưa kiểm tra thì giữa kì hoặc cuối kì GV có thể thu vở bài tập để về nhà kiểm tra và cho điểm. Song, phương pháp này chỉ nên áp dụng trong thời gian đầu của năm học để HS quen dần với nề nếp học tập. Bởi nếu kéo dài đến lớp 11, 12 nó có thể sẽ gây ra thái độ học tập đối phó và không khí học tập sẽ trở nên nặng nề, có thể sẽ làm cho tâm lí “sợ” thậm chí “ghét” môn GDCD trong HS tăng lên. Giải pháp bền vững nhất là trong quá trình dạy học, GV phải làm thế nào để kích thích được ý thức ham học hỏi của HS, đặc biệt ở phần thứ nhất: “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa họ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phat_huy_tinh_chu_dong_sang_tao_cua_hoc_sinh_trong_day.doc