SKKN Phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh thông qua việc sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong
Trên con đường hội nhập và phát triển cùng thế giới, đất nước ta đã và đang từng bước đổi mới, áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào trong mọi lĩnh vực của đời sống và sản xuất để thực hiện công cuộc “ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước. Do đó việc đào tạo ra nguồn nhân lực có tri thức và đạo đức đang là mục tiêu lớn của ngành giáo dục nước ta hiện nay.
Cùng với mục tiêu chung của ngành giáo dục, mục tiêu của giáo dục cấp trung học phổ thông (THPT) đó là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức , trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản ; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo , hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động , tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Luật giáo dục đã quy định : “ Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở(THCS), hoàn thiện học vấn phổ thông có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp , học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Môn Công nghệ 11 được Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn trên tinh thần đổi mới , đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nó cùng với các môn học khác trong nhà trường phổ thông góp phần quan trọng vào việc tạo nền tảng ban đầu để đào tạo con người phát triển toàn diện.
Thực tế như chúng ta đã thấy, động cơ đốt trong có vai trò rất quan trọng và được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như : Nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, quân sự. Do đó đối với người học sinh phổ thông dù sau này có lựa chọn nghề nghiệp gắn bó với động cơ đốt trong hay không thì những hiểu biết về động cơ đốt trong nói chung cũng như nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong vẫn luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của họ. Chính vì vậy để có thể hiểu và ghi nhớ sâu sắc hơn về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
PHẦN 1. MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài Trên con đường hội nhập và phát triển cùng thế giới, đất nước ta đã và đang từng bước đổi mới, áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại vào trong mọi lĩnh vực của đời sống và sản xuất để thực hiện công cuộc “ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước. Do đó việc đào tạo ra nguồn nhân lực có tri thức và đạo đức đang là mục tiêu lớn của ngành giáo dục nước ta hiện nay. Cùng với mục tiêu chung của ngành giáo dục, mục tiêu của giáo dục cấp trung học phổ thông (THPT) đó là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức , trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản ; phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo , hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động , tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Luật giáo dục đã quy định : “ Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở(THCS), hoàn thiện học vấn phổ thông có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp , học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Môn Công nghệ 11 được Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn trên tinh thần đổi mới , đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nó cùng với các môn học khác trong nhà trường phổ thông góp phần quan trọng vào việc tạo nền tảng ban đầu để đào tạo con người phát triển toàn diện. Thực tế như chúng ta đã thấy, động cơ đốt trong có vai trò rất quan trọng và được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như : Nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, quân sự... Do đó đối với người học sinh phổ thông dù sau này có lựa chọn nghề nghiệp gắn bó với động cơ đốt trong hay không thì những hiểu biết về động cơ đốt trong nói chung cũng như nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong vẫn luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của họ. Chính vì vậy để có thể hiểu và ghi nhớ sâu sắc hơn về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng. Những vấn đề nêu trên vừa là cơ sở lí luận, vừa là cơ sở thực tiễn để mỗi người giáo viên giảng dạy môn công nghệ trong nhà trường phổ thông phải có trách nhiệm tìm ra con đường để hướng dẫn học sinh tiếp nhận và khắc sâu kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong một cách chủ động, tích cực, sáng tạo và có hiệu quả. Hoà nhập với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học hiện nay, rút kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghiệp và bằng thực tế giảng dạy của mình, tôi xin mạnh dạn giới thiệu sáng kiến kinh nghiệm : “Phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh thông qua việc sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong”. 2. Mục đích nghiên cứu. Thiết kế, sử dụng sơ đồ khối trong dạy học chương VI- Cấu tạo của động cơ đốt trong - Công nghệ 11, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học Công nghệ 11. 3. Đối tượng nghiên cứu. Nguyên lí làm việc của một số hệ thống động cơ đốt trong trong chương trình công nghệ 11. 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. - Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) theo hướng tích cực hóa việc học của học sinh. - Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 11 (phần Động cơ đốt trong). - Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp xây dựng sơ đồ khối trong nội dung chương VI: Cấu tạo của động cơ đốt trong - Công nghệ 11 theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. 4.2. Phương pháp chuyên gia. Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. 4.3. Phương pháp thực tập sư phạm. Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT 4 Thọ Xuân, tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu. 4.4. Phương pháp thống kê toán học. Sử dụng phương pháp thống kê toán học để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được. PHẦN 2: NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Một số khái niệm cơ bản. 1.1. Phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học là những công cụ mà người thầy giáo và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học. Đó là những công cụ giúp người thầy tổ chức, điều khiển quá trình dạy học và những công cụ giúp người học tổ chức hoạt động nhận thức của mình một cách hiệu quả. 1.2. Phương tiện trực quan. Phương tiện trực quan là những công cụ, (phương tiện) mà người giáo viên và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học nhằm xây dựng cho học sinh những biểu tượng về sự vật, hiện tượng, hình thành khái niệm thông qua sự tri giác trực tiếp bằng các giác quan của người học. 1.3. Sơ đồ khối trong dạy học. Sơ đồ khối, sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy,...là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ theo một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng sơ đồ theo một cách riêng, do đó việc lập sơ đồ phát huy tối đa được khả năng sáng tạo của mỗi người. Sơ đồ dạy học chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng, các phân tích. Có thể vận dụng sơ đồ vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, ... Sơ đồ dạy học giúp học sinh có được phương pháp học tập chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh vẽ sơ đồ có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát huy khả năng phân tích giả thiết tìm lời giải, các em tự “sáng tác” nên trên mỗi sơ đồ thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh. Sơ đồ dạy học đặc biệt là sơ đồ tư duy giúp học sinh ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của sơ đồ tư duy nên người thiết kế sơ đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic. Vì vậy, việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. 1.3.1. Yêu cầu của việc xây dựng sơ đồ: *Tính khoa học: nội dung sơ đồ phải bám sát nội dung của bài học, các mối quan hệ phải là bản chất, khách quan chứ không phải do người xây dựng sắp đặt. *Tính sư phạm, tư tưởng: sơ đồ phải có tính khái quát hóa cao, qua sơ đồ học sinh có thể nhận thấy ngay các mối quan hệ khách quan, biện chứng. *Tính mĩ thuật: bố cục của sơ đồ phải hợp lí, cân đối, nổi bật trọng tâm và các nhóm kiến thức. 1.3.2 Các bước xây dựng: - Bươc 1: Tổ chức các đỉnh của sơ đồ ( chọn kiến thức cơ bản, vừa đủ, mã hoá một cách ngắn gọn, cô đọng, súc tích, bố trí các đỉnh trên một mặt phẳng ). - Bước 2: Thiết lập các cạnh ( các cạnh nối những nội dung ở các đỉnh có liên quan ) - Bước 3: Hoàn thiện ( kiểm tra lại tất cả để điều chỉnh sơ đồ phù hợp với nội dung dạy học và logic nội dung, đảm bảo tính thẩm mĩ và dễ hiểu ). 1.3.3. Cách xây dựng một sơ đồ: - Giáo viên nghiên cứu nội dung chương trình giảng dạy, lựa chọn ra những bài, những phần có khả năng áp dụng phương pháp sơ đồ có hiệu quả nhất. Tiếp theo giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những khái niệm cơ bản, khái niệm gốc cần truyền đạt, hình thành. - Trong dạy học địa lí ta có thể xây dựng các kiểu sơ đồ sau: + Sơ đồ dùng để chứng minh hay giải thích dùng để phản ánh nội dung bài giảng một cách trực quan, dể khái quát, dể tiếp thu. + Sơ đồ tổng hợp dùng để ôn tập, tổng kết hay hệ thống 1 chương, 1 phần kiến thức. + Sơ đồ kiểm tra để đánh giá năng lực tiếp thu, hiểu biết của học sinh đồng thời giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung truyền đạt. 1.3.4. Cách sử dụng sơ đồ: - Giáo viên dựa vào chính sơ đồ để soạn ra các tình huống dạy học cũng như các thao tác, phương pháp dạy; lúc này sơ đồ chính là mục đích - phương tiện truyền đạt của giáo viên và lĩnh hội kiến thức của học sinh. - Trong khi sử dụng giáo viên phải hình thành rõ mạch chính, mạch nhánh của sơ đồ, mối quan hệ nhân qủa, mối quan hệ tác động hoặc sự liên kết các đơn vị kiến thức trên sơ đồ. 1.4. Các hệ thống của động cơ đốt trong được giới thiệu trong chương VI “ Cấu tạo của động cơ đốt trong”. - Hệ thống bôi trơn. - Hệ thống làm mát. - Hệ thống cung cấp nhiên liệu và không khí trong động cơ xăng. - Hệ thống cung cấp nhiên liệu và không khí trong động cơ điêzen. - Hệ thống đánh lửa. - Hệ thống khởi động. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 1. Đại đa số học sinh của Trường THPT IV Thọ Xuân là học sinh ở vùng trung du miền núi, trình độ nhận thức của các em không đồng đều. Địa bàn khu vực còn non kém về nền công nghiệp. Tình trạng ngại học, coi nhẹ môn học do đây không phải là môn thi tốt nghiệp và thi vào Đại học, Cao đẳng ...Nên đã dẫn đến một thực tế đáng buồn là kết quả, hiệu quả của giờ học chưa cao, chưa đạt được nhiều theo mục đích, yêu cầu đặt ra. 2. Kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là nội dung mang tính trừu tượng, học sinh không thể trực tiếp quan sát, tri giác được. Để tiếp thu được nội dung này học sinh phải hình dung, tưởng tượng, phải thực hiện các thao tác tư duy dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó đã gây ra nhiều khó khăn cho học sinh trong việc tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức của bài học, dẫn đến sự say mê, yêu thích môn học của học sinh không nhiều, chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao. Nguyên nhân do nhiều phía: Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương trình còn ở mức độ, tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh..... và còn nhiều lí do khác nữa dược đưa ra để biện minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo viên Công nghệ cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và hứng thú Để thực hiện tốt giờ dạy theo tinh thần đổi mới, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú của học sinh. Bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về tư duy, nhận thức từ khâu soạn giáo án ( Thiết kế bài học ) cho đến cách sử dụng thiết bị dạy học, lập phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học sinh, từ đó điều chỉnh cho phù hợp với thực tế nhà trường và đối tượng học sinh. 3. Phương pháp dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong đang được sử dụng phổ biến hiện nay đó là: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc bằng cách thông qua một số câu hỏi gợi mở, học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, quan sát sơ đồ cấu tạo rồi tiến hành tư duy, hình dung, tưởng tượng và rút ra nguyên lí làm việc của hệ thống. Sau đó giáo viên tóm tắt và kết luận lại cho học sinh về nguyên lí làm việc của hệ thống dưới dạng lí thuyết. Với cách thực hiện như trên không phải hoàn toàn là cái dở mà cũng có cái hay của nó. Qua đó nó thể hiện được phong cách, phương pháp và khả năng truyền đạt kiến thức của người giáo viên. Tuy nhiên với cách thực hiện như vậy, nó cũng gây không ít khó khăn cho cả giáo viên lẫn học sinh. Sau khi nghiên cứu xong, kiến thức về nguyên lí làm việc của các hệ thống trong động cơ đốt trong là những lí thuyết. Chúng thường mờ nhạt và trừu tượng. Do đó học sinh rất khó khăn trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức vừa nghiên cứu. III. Phương pháp sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong. Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm đạt mục đích dạy học. Quá trình nhận thức diễn biến theo con đường mà LêNin đã chỉ rõ: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan”. Nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong là những kiến thức lí thuyết, chúng thường mờ nhạt, trừu tượng, chưa tác động mạnh vào các giác quan. Do đó kí ức khó ghi nhận và tái hiện lại khi cần thiết. Vì vậy cần phải cụ thể hoá, vật chất hoá, làm cho lí thuyết được cụ thể hơn, sâu sắc hơn và có tính thuyết phục hơn. Từ đó học sinh có thể dễ dàng tiếp nhận kiến thức và khắc sâu vấn đề lí thuyết vừa nghiên cứu. Ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy phong phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thường sử dụng và còn tiếp tục được sử dụng. Tôi chỉ xin giới thiệu một cách dạy kết hợp giữa phương pháp truyền thống với những yêu cầu mới. Đó là: Sử dụng sơ đồ khối khi dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong. Cách thức tiến hành: Khi nghiên cứu, tìm hiểu về nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong. Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, quan sát sơ đồ cấu tạo của hệ thống. Thông qua một số câu hỏi gợi mở, giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành tư duy và xây dựng sơ đồ khối thể hiện nguyên lí làm việc của hệ thống. Giờ dạy này ứng dụng công nghệ thông tin là tốt nhất. Vì vậy giáo viên nên sử dụng giáo án điện tử để thuận tiện cho việc giảng dạy, rút ngắn thời gian vẽ sơ đồ và nhất là tạo sinh động hơn trong tiết học, thu hút được học sinh, làm cho học sinh có sự hứng thú và say mê môn học. IV. Vận dụng cụ thể 1. Nguyên lí làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức ( Bài25: Hệ thống bôi trơn ) * Trường hợp 1: Khi hệ thống làm việc bình thường Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Cacte dầu Lưới lọc Bơm dầu Bầu lọc Van khống chế Đường dầu chính Bề mặt ma sát Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi động cơ làm việc, dầu bôi trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới lọc và bầu lọc để lọc sạch rồi đưa qua van khống chế đến đường dầu chính rồi theo các đường ống đến bôi trơn các bề mặt ma sát của động cơ, sau đó trở về cacte. * Trường hợp 2: Khi áp suất của dầu bôi trơn vượt quá giá trị cho phép Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Cacte dầu Lưới lọc Bơm dầu Bầu lọc Van khống chế Đường dầu chính Bề mặt ma sát Van an toàn Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi áp suất của dầu bôi trơn vượt quá giá trị cho phép thì van an toàn mở để một phần dầu từ sau bơm chảy ngược về trước bơm làm giảm áp suất của dầu xuống. Khi đó hệ thống làm việc theo trường hợp bình thường. * Trường hợp 3: Khi nhiệt độ của dầu cao quá giới hạn định trước Dầu bôi trơn chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Cacte dầu Lưới lọc Bơm dầu Bầu lọc Két làm mát Đường dầu chính Bề mặt ma sát Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi nhiệt độ của dầu cao quá giới hạn định trước thì van khống chế đóng lại để toàn bộ lượng dầu chảy qua két làm mát dầu, làm nhiệt độ của dầu giảm xuống. Khi đó dầu bôi trơn được bơm dầu hút từ cacte dầu đưa qua lưới lọc và bầu lọc để lọc sạch rồi đưa qua két làm mát đến đường dầu chính, theo các đường ống đến bôi trơn các bề mặt ma sát của động cơ, sau đó trở về cacte. 2. Nguyên lí làm việc của hệ thống làm mát bằng nước loại tuần hoàn cưỡng bức ( Bài 26 : Hệ thống làm mát ) * Trường hợp 1: Khi nhiệt độ nước trong áo nước còn thấp hơn giới hạn định mức Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Két nước Bơm nước Áo nước Van hằng nhiệt Đường ống số 8 Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi nhiệt độ nước trong áo nước còn thấp hơn giới hạn định mức thì van hằng nhiệt chỉ mở cửa thông với đường ống số 8 để nước chảy thẳng về bơm. Khi đó nước làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược đưa qua van hằng nhiệt, theo đường ống số 8 chảy thẳng về bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín. * Trường hợp 2: Khi nhiệt độ nước trong áo nước xấp xỉ giới hạn định mức Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Két nước Bơm nước Áo nước Van hằng nhiệt Đường ống số 8 Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi nhiệt độ nước trong áo nước xấp xỉ giới hạn định mức thì van hằng nhiệt mở cả cửa thông với đường ống số 8 và cửa thông với két nước. Khi đó nước làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược đưa qua van hằng nhiệt, một phần theo đường ống số 8 chảy thẳng về bơm còn một phần chảy qua két nước để làm mát trước khi đưa đến bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín. * Trường hợp 3: Khi nhiệt độ nước trong áo nước vượt quá giới hạn định mức Nước làm mát chảy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Két nước Bơm nước Áo nước Van hằng nhiệt Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi nhiệt độ nước trong áo nước vượt quá giới hạn định mức thì van hằng nhiệt chỉ mở cửa thông với két nước. Khi đó nước làm mát được bơm nước hút từ két nước đưa đến các áo nước để làm mát các chi tiết, sau đó dược đưa qua van hằng nhiệt rồi chảy qua két nước để làm mát trước khi đưa đến bơm tạo thành vòng tuần hoàn khép kín. 3. Nguyên lí làm việc của hệ thống đánh lửa điện tử không tiếp điểm Ma-nhê-tô Biến áp đánh lửa Bugi Khóa điện WN - Cuộn nguồn WĐK - Cuộn điều khiển Đ1 , Đ2 – Điôt thường ĐĐK- Điôt điều khiển CT - Tụ điện W1 -Cuộn sơ cấp W2 - Cuộn thứ cấp ) * Trường hợp 1: Khi mở khoá điện Dòng điện chạy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Ma nhê tô Bộ chia điện Biến áp đánh lửa Bu gi Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi mở khoá điện và ma-nhê-tô hoạt động thì các sức điện động xoay chiều trên các cuộn dây WN và WĐK của ma-nhê-tô được đưa đến bộ chia điện. Nhờ tác dụng của bộ chia điện, dòng điện được đưa đến biến áp đánh lửa. Tại đây nó tạo ra tia lửa điện và đặt ở bugi. * Trường hợp 2: Khi đóng khoá điện Dòng điện chạy trong hệ thống theo sơ đồ khối như sau: Ma nhê tô Khoá điện “Mát” Giải thích nguyên lí theo sơ đồ: Khi đóng khoá điện thì điện từ cuộn WN của ma-nhê-tô sẽ truyền qua khoá điện ra “mát”. Khi đó hệ thống đánh lửa ngừng làm việc. V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ khối để dạy phần nguyên lí làm việc của một số hệ thống trong động cơ đốt trong là cách làm phù hợp với thực tiễn của quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn Công nghệ trong nhà trường phổ thông, phù hợp với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn công nghệ hiện nay. Cách làm này thực chất là biến những gì thuộc về lí thuyết, trừu tượng thành cái cụ thể, quan sát được. Đồng thời nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh. Chúng ta đã và đang tìm kiếm con đường nâng cao hiệu quả học tập, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thì đây là cách làm có thể coi là hiệu quả. Trong mấy năm gần đây, khi sử dụng cách làm này vào thực tế giảng dạy bản thân tôi thấy rất có hiệu quả. Đây là một phương pháp đúng đắn. Những vấn đề lí thuyết không còn là trừu tượng, mờ nhạt và khó nhớ. Cách làm này khá thiết thực và rất dễ vận dụng. Thú vị hơn tôi còn thấy cũng với cách làm như thế nhưng nếu có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin ( sử dụng giáo án điện tử ) thì hiệu quả giờ học còn cao hơn nhiều. Còn có nhiều vấn đề phải rút kinh nghiệm khi ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học. Song bản thân tôi cho rằng trong những giờ học như thế này thì sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là tốt nhất, phù hợp nhất. Tôi đã làm phép so sánh kết quả học tập của học sinh và thu được kết quả rất khả quan như sau: Bảng 1: So sánh kết quả khi dạy phần nguyên lí làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức. Lớp 11A1 - Ban cơ bản. ( Dạy theo hình thức không sử dụng sơ đồ khối ) Số học sinh Mức độ nắm kiến thức Tốt Khá Trung bình Không nắm được 41 S
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phat_huy_tinh_chu_dong_sang_tao_cua_hoc_sinh_thong_qua.doc
- bìa skkn 17.doc
- MỤC LỤC skkn.docx