SKKN Phát huy tính chủ động của học sinh thông qua việc hướng dẫn học sinh tự học theo sơ đồ tư duy trong chương chất khí – Vật lý 10
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục hiện nay là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[6]. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do lựa chọn đề tài Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục hiện nay là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[6]. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực gải quyết các vấn đề phức hợp. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”[7]. Hiện nay các bài thi hoàn toàn dựa trên việc học thuộc lòng đã dần bị loại bỏ, để chuyển sang việc ra bài thi thiên về đánh giá khả năng suy nghĩ, áp dụng kiến thức của học sinh nhiều hơn. Đặc biệt với môn Vật lý, nội dung chương trình thi THPT quốc gia không giới hạn ở chương trình lớp 12 và 11 như năm học này mà trong năm học tới, nội dung thi có cả chương trình lớp 10. Trong đó, chương chất khí của vật lý 10 là một trong những nội dung vô cùng quan trong nhưng rất dễ làm khó học sinh vì học sinh dễ bị nhầm lẫn giữa các đại lượng và nhanh quên. Mà việc ra bài thi hiện nay thiên về phân tích và áp dụng kiến thức nên việc học sinh có thể ghi nhớ và hiểu được bản chất của kiến thức là điều rất quan trọng. Việc đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, trong đó hướng dẫn học sinh ghi nhớ kiến thức theo sơ đồ tư duy là cách thức mới được nhiều giáo viên lựa chọn. Giúp rèn luyện kĩ năng cho học sinh, để học sinh có thể tự học, tự thu thập kiến thức và coi việc vừa học vừa chơi đầy thú vị và có thể lưu giữ kiến thức lâu hơn. Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Phát huy tính chủ động của học sinh thông qua việc hướng dẫn học sinh tự học theo sơ đồ tư duy trong chương chất khí – vật lý 10”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế, xây dựng từng bài học của chương chất khí theo sơ đồ tư duy để học sinh tự học nhằm phát triển khả năng tư duy sáng tạo, chủ động và khả năng làm việc nhóm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Phương pháp dạy học chương chất khí – vật lý 10. 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu cơ sở lý thuyết liên quan đến phương pháp tự học và sơ đồ tư duy đã được rất nhiều giáo viên áp dụng vào các bài học trước đó. 1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp quan sát tự nhiên. + Phương pháp đàm thoại, trò chuyện. + Phương pháp thống kê toán học. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Khái niệm về sơ đồ tư duy: Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy (Mind Map) là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề [1]. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp thế giới. Phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập đoàn, công ty hàng đầu thế giới; hơn 250 triệu người sử dụng phương pháp Mind Map của Tony Buzan; khoảng hơn 3 tỷ người đã từng xem và nghe chương trình của ông (ông đã từng sang Việt Nam năm 2007 để nói chuyện về lĩnh vực nghiên cứu của mình). Tony Buzan sinh năm 1942, Anh, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên cứu hoạt động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map. Như vậy việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học đã là ý tưởng từ lâu, không phải là một ý tưởng mới nhưng việc áp dụng nó cho từng môn học nhất là môn Vật lý, một môn học có tính logic, tính thực tiễn thì tôi nhận thấy chưa nhiều, và việc hình thành thói quen xây dựng sơ đồ tư duy thì ít khi được giáo viên và học sinh thực hiện. Đây là điều trăn trở lớn nhất của tôi đối với đề tài này là liệu phương pháp này có thực sự hữu ích với các em, được các em đón nhận nhiệt tình và nó thực sự cải thiện được khả năng ghi nhớ. Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy ở dạng đơn giản theo nguyên tắc phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận. Có nhiều cách Sử dụng bản đồ, nhưng theo Tony Buzan để bắt đầu một sơ đồ tư duy thì cần bốn yếu tố sau: + Một tờ giấy trắng. + Bút chì màu + Bộ não + Trí tưởng tượng Tiếp đó Tony Buzan đưa ra bảy bước vẽ cơ bản của Bản đồ tư duy: 1. Bắt đầu bằng một khái niệm gốc ở giữa tờ giấy. 2. Vẽ hình ảnh đại diện co khái niệm gốc bởi hình ảnh thú vị hơn con chữ, nó giúp chúng ta tập trung và kích thích trí tưởng tượng. 3. Sử dụng bút chì màu vì màu sắc sẽ tạo ra sự sống động và kích thích bộ não tư duy sáng tạo. 4. Bắt đầu vẽ các nhánh chính sau đó vẽ các nhánh cấp hai và cấp ba bởi bộ não hoạt động theo cơ chế liên kết các mẩu thông tin. Bằng cách hiểu thấu đáo và ghi nhớ sẽ dễ dàng hơn. 5. Hãy vẽ các nhánh theo đường cong thay vì đường thẳng bởi bộ não của chúng ta có xu hướng nhàm chán với toàn các đường thẳng. 6. Chỉ viết một từ khóa trên mỗi nhánh bởi bản đồ tu duy sẽ linh hoạt và giàu sức nặng hơn nếu chỉ chứa những từ khóa đơn. 7. Sử dụng hình ảnh xuyên suốt Bản đồ tư duy vì theo Tony BuZan một hình ảnh bằng cả triệu ngôn từ. Nếu bạn dùng mười hình ảnh trong Bản đồ nó có giá trị ghi chú mười triệu từ. 2.1.2. Ưu điểm của sơ đồ tư duy - Sơ đồ tư duy đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó [1]. - Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại một công dụng lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não. - Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới, v.v - Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó là “sắp xếp” ý nghĩ của học sinh. Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, Bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh: Sáng tạo hơn Tiết kiệm thời gian Ghi nhớ tốt hơn Nhìn thấy bức tranh tổng thể Tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh và nhiều vấn đề khác trong quá trình học tập Lập sơ đồ tư duy (hoặc sơ đồ ý tưởng) là việc bắt đầu từ một ý tưởng trung tâm và viết ra những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm. Bằng cách tập trung vào những ý tưởng chủ chốt được viết bằng từ ngữ của học sinh, sau đó tìm ra những ý tưởng liên quan và kết nối giữa những ý tưởng lại với nhau hình thành nên một sơ đồ tư duy. Tương tự, nếu học sinh lập một sơ đồ kiến thức, nó sẽ giúp học sinh hiểu và nhớ những thông tin mới và nắm kiến thức sâu hơn 2.1.3. Những lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên, học sinh cũng không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ cần dùng một hai màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian. Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, thì học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó – rất mới mẻ và tốn ít thời gian. Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại, cuốn hút. Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều không bị ràng buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới. Nếu trên mỗi nhánh học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậyhọc sinh sẽ dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng của bộ não. Não của học sinh sẽ mất hết hứng thú khi tiếp nhận một thông tin hoàn chỉnh. Vì vậy, trên mỗi nhánh học sinh chỉ viết một, hai từ khóa mà thôi. Khi đó, học sinh sẽ viết rất nhanh và khi đọc lại, não của học sinh sẽ được kích thích làm việc để nối kết thông tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao khả năng ghi nhớ của học sinh. Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn học Vật lý, đặc biệt là khi ôn tập cho các kỳ thi (dù là thi, học, đều sử dụng tốt). Sơ đồ tư duy cũng giúp các học sinh và các thầy cô tiết kiệm thời gian làm việc ở nhà và trên lớp rất nhiều với các phần mềm sơ đồ tư duy trên máy tính học sinh có thể làm tại nhà và gửi email cho các thầy cô chấm chữa trước khi lên lớp. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trong những năm qua việc đổi mới phương pháp được đặc biệt quan tâm, lấy người học là trung tâm việc giáo dục, giáo viên trở thành người dẫn dắt vấn đề, học sinh tích cực chủ động nắm bắt kiến thức. Vật lý là một ngành khoa học rất quan trọng có tính thực tiễn gắn bó mật thiết với cuộc sống, tuy nhiên việc học bộ môn đối với nhiều học sinh cũng không phải là dễ, vì các bài tập Vật lý yêu cầu học sinh cần phải hiểu bản chất hiện tượng và thành thạo các công cụ Toán học. Việc có nhiều học sinh có khả năng tiếp thu kiến thức trên lớp rất nhanh, nhưng sau một thời gian kiểm tra lại kiến thức cũ thì các em trả bài rất kém hoặc không trả bài được. Phần lớn nguyên nhân của nó là do học sinh còn lười học bài cũ, sau đó cũng do các em học tập nhiều môn học tiếp thu nhiều kiến thức nhưng chưa biết sắp xếp khoa học để ghi nhớ có hiệu quả, chính vì vậy mà học tập chưa đạt kết quả cao, không gây hứng thú trong quá trình học, coi việc học là khó khăn và nhàm chán. Trong việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm thì việc tự học của học sinh vô cùng quan trọng, để điều khiển quá trình tự học sao cho có hiệu quả nhất thì việc kiểm tra đánh giá của giáo viên đòi hỏi phải thật khéo léo, đa dạng góp phần tích cực làm chuyển biến quá trình tự học của học sinh hiện nay. Tuy vậy, trong thực tế dạy học hiện nay việc áp dụng phương pháp dạy học hướng dẫn học sinh tự học của giáo viên ở tất cả các môn học nói chung và môn Vật lý nói riêng còn gặp rất nhiều lúng túng và khó khăn. Một số giáo viên chưa tự soạn bài, vẫn áp dụng một cách rập khuôn, máy móc lối dạy truyền thống chủ yếu giải thích, minh họa tái hiện, liệt kê kiến thức theo SGK là chính, ít sử dụng câu hỏi tìm tòi, tình huống có vấn đề....coi nhẹ rèn luyện thao tác tư duy, năng lực thực hành, ít sử dụng các phương tiện dạy học nhất là các phương tiện trực quan để dạy học và tổ chức cho học sinh nghiên cứu thảo luận trên cơ sở đó tìm ra kiến thức và con đường để chiếm lĩnh kiến thức của học sinh. Thực tế, giáo viên thường soạn bài theo cách sao chép lại SGK hay từ thiết kế bài giảng, không khai thác sâu kiến thức, chưa sát với nội dung chương trình, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề từ nhỏ đến lớn trong thực tế đời sống và sản xuất. Khi dạy thường nặng về thông báo, không hướng dẫn phương pháp tự học. Mặc khác, phương pháp dạy học phổ biến hiện nay vẫn theo “lối mòn”, giáo viên truyền đạt kiến thức, học sinh thụ động lĩnh hội tri thức. Thậm chí có giáo viên còn đọc chép phần lớn nội dung lên bảng cho học sinh chép nội dung SGK. Việc sử dụng các phương pháp dạy học: phiếu học tập, tranh ảnh, băng hình, bản trong...chỉ dùng khi có đoàn thanh tra, kiểm tra đến dự giờ, còn phần lớn các tiết học đều là dạy chay. Do việc truyền đạt kiến thức của giáo viên theo lối thụ động nên rèn luyện kĩ năng tự học cũng như việc hướng dẫn tự học của giáo viên cho học sinh không được chú ý làm cho chất lượng giờ dạy không cao. Ở trường THPT Đặng Thai Mai, đầu vào của học sinh rất thấp, số lượng học sinh có điểm cao không nhiều. Học sinh lớp 10 còn kém cả về ý thức học tập cũng như nhận thức hay khả năng tiếp thu bài học. Đặc biệt hạn chế trong việc học bài cũ, tự học ở nhà hay trên lớp. Một số học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt hơn thì chỉ dừng lại ở việc học bài cũ nhưng sau một thời gian thì sẽ quên lượng kiến thức đã học. Các tiết học cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức SGK nên học sinh rất nhanh quên các kiến thức đã học. 2.3. Giải pháp thực hiện để thay đổi thực trạng: Sử dụng sơ đồ tư duy để hướng dẫn học sinh tự học chương chất khí – vật lý 10 THPT Thay vì những tiết học nhàm chán là: kiểm tra bài cũ và cung cấp kiến thức mới, vận dụng giải bài tập thì tôi áp dụng cách hướng dẫn học sinh tự học thông qua sơ đồ tư duy. Tôi vận dụng sơ đồ tư duy để trình bày câu hỏi gợi mở, đây cũng là một trong những hình thức hướng dẫn, định hướng cho học sinh việc chuẩn bị sơ đồ tư duy cho bản thân. Nếu kiến thức dàn trải, việc phân mảng kiến thức và giao nhiệm vụ cho từng nhóm sẽ khả thi, tạo ra sự hăng say, nâng cao tinh thần đoàn kết thực hiện nhiệm vụ chung. Yêu cầu sau khi hoàn thành Sơ đồ tư duy các nhóm sẽ cử đại diện lên báo cáo kết quả. Nội dung câu hỏi nên đưa cho học sinh trước một tuần để các em có thời gian chuẩn bị kỹ trước khi lên thuyết trình trước tập thể lớp. Các bước khi tiến hành: + Bước 1: Cung cấp kiến thức cơ bản cho học sinh về sử dụng sơ đồ tư duy đơn giản bằng giấy trắng và bút màu. + Bước 2: Ra các câu hỏi dạng đề cương cụ thể và yêu cầu học sinh trả lời bằng cách phác họa sơ đồ tư duy cho bài học (ở tiết học trước) + Bước 3: Chia lớp thành các nhóm và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chung để tiết tiếp theo mỗi nhóm cử đại diện lên thuyết trình. + Bước 4: Ở tiết học, học sinh lên trình bày giải thích nội dung bài học. Học sinh khác góp ý và nhận xét. Giáo viên củng cố và giải thích một số thắc mắc của học sinh trong nội dung bài học. + Bước 5: Giáo viên cho các câu hỏi kiểm chứng mưc độ hiểu bài và hiệu quả của cách làm. + Bước 6: Kết thúc bài học, học sinh hoàn thiện lại sơ đồ tư duy bài học cho chính mình. Ví dụ cụ thể Bài 1: Cấu tạo chất – thuyết động học phân tử chất khí 1. Mục tiêu bài học - Kiến thức: - Nêu được đặc điểm của cấu tạo chất - Nêu được nội dung của thuyết động học phân tử chất khí - Biết được thế nào là khí lý tưởng - Kĩ năng: - Vận dụng kiến thức bài học để giải thích một số hiện tượng và trả lời được phần trắc nghiệm. 2. Nội dung bài học - Các câu hỏi định hướng tự học(học sinh trả lời theo phiếu học tập) + Câu 1: Nêu nội dung về chất khí? + Câu 2: Nêu nội dung của thuyết động học phân tử chất khí? + Câu 3: Thế nào là khí lý tưởng? - Chọn gốc của sơ đồ tư duy là chất khí. Yêu cầu học sinh vẽ nhánh đặc điểm của chất khí và các vấn đề liên quan đến chất khí. Học sinh có thể vẽ theo biểu cảm của mình và dùng màu vẽ thích hợp. - Câu hỏi kiểm chứng mức độ hiểu bài của học sinh: Câu 1: Đặc điểm nào sau đây không phải của chất khí: A. Các phân tử chuyển động hỗn độn không ngừng. B. Nhiệt độ càng cao thì các phân tử chuyển động càng nhanh. C. Lực tương tác giữa các phân tử rất nhỏ. D. Các phân tử sắp xếp một cách có trật tự. Câu 2: Đặc điểm nào sau đây không phải là đặc điểm của chuyển động của các phân tử khí : A. Các phân tử chuyển động không ngừng. B. Nhiệt độ của vật càng cao thì các phân tử chuyển động càng nhanh. C. Giữa hai lần va chạm, các phân tử khí chuyển động theo đường thẳng. D. Chuyển động của các phân tử là do lực tương tác giữa các phân tử gây ra. Câu 3: Tính chất nào sau đây đúng cho phân tử khí? A. Giữ các phân tử có khoảng cách. B. Chuyển động theo một quỹ đạo nhất định. C. Có lúc đứng yên, có lúc chuyển động. D. Vận tốc không thay đổi theo nhiệt độ. Câu 4: Đặc điểm nào sau đây không phải của chất khí: A. Lực tương tác phân tử chỉ đáng kể khi các phân tử rất gần nhau. B. Lực hút phân tử có thể lớn hơn lực đẩy phân tử. C. Lực hút phân tử có thể nhỏ hơn lực đẩy phân tử. D. Lực hút phân tử không thể bằng lực đẩy phân tử. Câu 5: Nhận xét nào sau đây không phải của khí lý tưởng: A. Có thế năng tương tác giữa các phân tử không đáng kể. B. Có lực tương tác giữa các phân tử không đáng kể. C. Có khối lượng không đáng kể. D. Có thể tích các phân tử không đáng kể. Câu 6: Khối khí lý tưởng không có đặc điểm nào sau đây: A. Lực tương tác giữa các phân tử rất nhỏ trừ khi va chạm nhau. B. Thể tích của các phân tử khí rất nhỏ so với thể tích của bình chứa. C. Khi các phân tử khí va chạm nhau thì quá trình va chạm đó là va chạm không đàn hồi. D. Gồm một số rất lớn các phân tử khí. Câu 7: Chất khí lý tưởng là chất khí trong đó các phân tử được coi là chất điểm và A. đẩy nhau khi gần nhau. B. hút nhau khi ở xa nhau. C. không tương tác với nhau. D. chỉ tương tác với nhau khi va chạm. Bài 2: Quá trình đẳng nhiệt – định luật Bôi lơ – Mariot 1. Mục tiêu bài học - Kiến thức: - Biết được các thông số của một trạng thái khí. - Biết được đẳng quá trình và quá trình đẳng nhiệt. - Nêu được biểu thức và nội dung của định luật Bôi lơ - Biết đường đặc trưng của quá trình đẳng nhiệt trong hệ P(V). - Kĩ năng: Vận dụng định luật giải được các bài tập liên quan. 2. Nội dung bài học - Các câu hỏi định hướng tự học: - Trạng thái khí có bao nhiêu thông số và là những thông số nào? - Thế nào là quá trình biến đổi trạng thái khí? Đẳng quá trình có đặc điểm gì? - Thế nào là đẳng nhiệt? Viết biểu thức và nội dung của định luật Bôi Lơ? Đường đẳng nhiệt trong hệ P(V) có dạng gì? - Tìm hiểu một vài thí dụ về mối liên hệ giữa 2 thông số P và V trong quá trình đẳng nhiệt mà em biết trong thực tế. - Gốc của sơ đồ tư duy là: Đẳng nhiệt. Yêu cầu học sinh vẽ nhánh dựa trên các câu hỏi trên. - Câu hỏi kiểm chứng mức độ hiểu bài: Câu 1: Các thông số nào sau đây dùng để xác định trạng thái của m
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phat_huy_tinh_chu_dong_cua_hoc_sinh_thong_qua_viec_huon.docx