SKKN Nâng cao hiệu quả dạy- Học môn Hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học
Trong chương trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong chương trình phổ thông là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm học HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Có lúc học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?
Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.
Có những vấn đề hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong chương trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong chương trình phổ thông là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm học HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Có lúc học sinh học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích? Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế. Có những vấn đề hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê học tập của học sinh. Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học” qua đó từng bước hình thành ở các em lòng yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích cho môn hóa ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gủi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học 1.2. Mục đích nghiên cứu Hiện nay đã có hiện tượng một bộ phận học sinh không muốn học hóa học ngày càng lạnh nhạt với các giá trị thực tiễn của hóa học.Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan. Đồng thời, đề tài cũng sẽ làm rõ ý nghĩa khoa học hoá học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống thường ngày qua giảng dạy môn hoá học lớp 11, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn học. Từ những cơ sở đó, đề tài cũng sẽ đem lại cho giáo viên và học sinh những nhận thức về phương pháp học tập, làm việc mang tính hợp tác, thấy rõ vai trò tích cực của học sinh và chủ đạo của giáo viên làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù phức tạp. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Các phương pháp dạy học tích cực. - Các bài giảng trong chương trình THPT. - Tình hình thực tiễn ở địa phương. Học sinh THPT, đặc biệt là học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân (tôi đang dạy) 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu kiến thức này tôi tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Nghiên cứu kỹ lý thuyết trong sách giáo khoa. -Nghiên cứu tình hình thực tiễn tại địa phương để đưa ra những câu hỏi sát với thực tế giúp học sinh dễ nhận thấy và nắm được vấn đề. -Nghiên cứu khả năng tiếp thu của học sinh trường PT Nguyễn Mộng Tuân để có những cách trình bày thật dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Vận dụng phương pháp đưa vấn đề thực tiễn vào bài giảng của mình, học tập của học sinh, cũng như thu thập ý kiến phản hồi của học sinh và đồng nghiệp, rút kinh nghiệm sữa chửa, bổ sung, hoàn thiện hơn. 2. NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1 Cơ sở pháp lí - Dựa trên nội dung bộ SGK 10,11,12 do Bộ Giáo dục pháp hành. - Dựa trên bài tập của bộ sách bài tập hóa học đang dùng trong trường. - Dựa trên nội dung của các đề thi do Bộ Giáo dục ra. Đó là 3 cơ sở pháp lý vững chắc để tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này. 2.1.2 Cơ sở lí luận Hóa học là môn học khó đối với học sinh và nó là môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học song chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó còn một số em học sinh cho rằng đây là môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hóa học dẫn đến kết quả học tập của học sinh về môn hóa học ở các trường còn thấp. . Hóa học chuyên nghiên cứu về các chất và sự chuyển hóa của các chất, giúp ta từ các chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới, nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong cuộc sống để từng bước nâng cao mức sống của con người và đáp ứng yêu cầu toàn bộ của xã hội.Từ thực tế này lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng một giờ dạy trên lớp và đây là môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất 2.1.3 Cơ sở thực tiễn Phân môn hóa học trong trường trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tri dục học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn thành, nâng cao cho học sinh những tri thức hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành của hóa học. Học hóa học, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa các chất bằng các phương trình phản ứng hóa học Đồng thời khơi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần con người Để đạt mục đích trong học hóa học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy ngoài những hiểu biết về hóa học , người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi có đề cập một khía cạnh “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh hóa học để hiểu, thiết thực, gần gủi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học Để hóa học không còn mang tính đặc thù, khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học” 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1 Thuận lợi: Hóa học là môn khoa học gắn liền với thực tiễn, trong các lĩnh vực đời sống, lao động ,quốc phòng... nhiều quá trình, hiện tượng mang bản chất hóa học mà rất nhiều người mong muốn hiểu rõ được bản chất vấn đề trong đó đối tượng học sinh chiếm tỉ lệ không nhỏ. Với xã hội ngày càng phát triển văn minh, yêu cầu của xã hội là bằng con đường giáo dục, truyền thông...nâng cao hiểu biết của người dân sao cho mọi vấn đề được nhìn nhận bởi ánh sáng khoa học tránh mê tín dị đoan và những quan điểm sai lệch làm phương hại đến đời sống, gây mất trật tự trị an trong cộng đồng. Việc phát triển của công nghệ kĩ thuật số góp phần to lớn vào việc tìm hiểu và giải quyết nhiều vấn đề trong đó có hóa học. Với mỗi học sinh THPT hiện nay, vấn đề truy cập mạng để tìm kiếm dữ liệu tiếp thu kiến thức rất dễ dàng dưới sự định hướng, theo dõi, giải thích của người giáo viên vững vàng kiến thức là rất tốt và cần thiết. 2.2.2 Khó khăn: Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nhiều em học sinh có tâm lí sợ học môn hóa học. Kiến thức xuyên suốt từ lớp dưới cho đến lớp trên, nếu bị hỏng một chổ nào đó là học sinh sẽ khó tiếp thu kiến thức mới. Kiến thức khô khan, lý thuyết dài dòng, khá mơ hồ làm cho học sinh khó hiểu bài. Đậc biệt kỹ năng vận dụng kiến thức vào bảo vệ môi trường, giải thích các hiện tượng xảy ra xung quanh còn rất hạn chế. Do vậy, nếu giáo viên không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp thì sẽ trở thành người cảm nhận, truyền thụ tri thức một chiều, dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận, có thể có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học hoặc lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hóa học người giáo viên dạy hóa còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Do vậy sáng kiến kinh nghiệm đề cập khía cạnh:” Nâng cao hiệu quả dạy – học môn hóa học THPT bằng việc giải thích các hiện tượng trong đời sống thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học. 2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Để giải quyết thực trạng, trong thời gian qua, việc giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường PT Nguyễn Mộng Tuân đã có những đổi mới rất tiến bộ. Ngoài việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, Tổ bộ môn còn tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, giúp các em tìm hiểu thêm về kiến thức trong thực tiễn. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để tạo hứng thú cho việc học của học sinh. Trước thực trạng đó, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học”. Có những vấn đề Hóa học có thể giúp học sinh giải thích các hiện tượng trong tự nhiên, tránh được tật mê tín dị đoan, hoặc là giải thích được các câu ca dao tục ngữ mà dân gian để lại trên phương diện khoa học. Từ đó học sinh cảm thấy không nhàm chán mà kiến thức môn Hóa học rất gần gũi và như là đâu đó ở xung quanh mình, góp phần cải tiến tư duy làm cho hóa học bớt đi khô khan, bớt đi tính hàn lâm và những đặc thù phức tạp của bộ môn. Trong phạm vi của đề tài này, tôi không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề có trong thực tiễn, mà chỉ cố gắng nêu một số kinh nghiệm và một số kiến thức về hiện tượng hóa học trong tự nhiên có liên quan đến nội dung bài học ở chương trình hóa học lớp 11, với mong muốn là góp phần cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao hiệu quả của bài dạy, giúp học sinh hứng thú hơn khi học môn Hóa học theo những cách nêu vấn đề như sau: 1) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn vào cuối bài học. Cách nêu vấn đề như thế này có thể tạo cho học sinh vận dụng kiến thức đã học tìm cách giải thích các hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp các hiện tượng đó. Học sinh sẽ ấp ủ câu hỏi: tại sao có hiện tượng đó, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các em tiếp tục nghiên cứu bài học mới. 2) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các phương trình phản ứng hóa học có trong bài học. Cách nêu vấn đề này có tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu ngay và thấy được ý nghĩa thực tiễn của bài học. Giáo viên có thể giải thích ngay để thỏa mãn tính tò mò của học sinh. 3) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày cho lời giới thiệu bài học mới. Cách nêu vấn đề này tạo tính bất ngờ cho học sinh. Có thể đó là một câu hỏi khôi hài hoặc là một vấn đề rất bình thường bắt gặp hàng ngày, tạo ra sự chú ý và quan tâm của học sinh khi học bài mới. 4)“Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này giúp học sinh hứng thú tìm tòi huy động các kiến thức để giải cho được bài tập đó. 5) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày thông qua các câu chuyện ngắn có tính khôi hài có thể xen vào bất cứ lúc nào trong suốt buổi học. Cách nêu vấn đề này tạo tâm lý thoải mái, gây hứng thú nhiều cho học sinh. 6) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày bằng cách thực hiện các thí nghiệm biễu diễn. Cách nêu vấn đề này giúp học sinh vận dụng kiến thức để quan sát và giải thích các hiện tượng thí nghiệm, giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào thực tiễn đời sống. 7) “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học lớp 11 bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu các hiện tượng thực tiễn hằng ngày bằng cách nêu các hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính quy luật. Cách nêu vấn đề này giúp học sinh thấy được sự chính xác của khoa học, làm cho kiến thức không khô khan mà trái lại rất gần gủi với cuộc sống. Để tổ chức thực hiện, giáo viên có thể vận dụng nhiều cách, nhiều phương tiện như sau: + Bằng lời thuyết trình, giải thích. + Bằng các đoạn phim ảnh, máy chiếu. + Bằng các thí nghiệm thực hành biểu diễn. + Bằng các hình vẽ, tranh ảnh. + Sưu tầm nhiều thí dụ minh họa, nhiều hiện tượng trong thực tiễn. + Yêu cầu học sinh nêu câu hỏi về các hiện tượng mà mình bắt phải. + Chất vấn học sinh để giải thích các hiện tượng đó. Sau đây là một số ví dụ minh họa về các vấn đề thực tiễn liên quan đến hóa học Vấn đề 1:Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển màu ? Giải thích: Có một số hợp chất hoá học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho dung dịch thay đổi màu khi độ axit thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị màu này. Trong chanh có chứa 7% axit xitric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm canxi Áp dụng: Hiện tượng này xảy ra trong thực tế có thể gây sự tò mò cho những lần đầu học sinh thấy và có thể là " hiển nhiên" mà không cần hiểu nguyên nhân .Vì vậy câu hỏi này có thể đưa vào bài giảng : pH – Chất chỉ thị axit- bazơ. Vấn đề 2: pH và sự sâu răng liên quan với nhau như thế nào ? Giải thích: Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bằng phản ứng : 5Ca2+ + 3PO43- + OH- ---> Ca5(PO4)3OH Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu răng. Sau bữa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic, axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt nhất cho việc sản sinh ra các axit đó. Lượng axit trong miệng tăng, pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra: . Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí Lơ Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho sâu răng phát triển. Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường, đánh răng sau khi ăn. Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2, vì ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra. Hợp chất Ca5(PO4)3 F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH. Trước đây, ở nước ta một số người có thói quen ăn trầu là tốt cho việc tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong miếng trầu có vôi tôi Ca(OH)2, chứa Ca2+ và OH- làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận. Áp dụng Bệnh sâu răng là bệnh rất phổ biến hiện nay .Vì vậy có thể đưa vấn đề này để học sinh hiểu được một trong những nguyên nhân gây bệnh sâu răng và cách phòng tránh vào bài " pH – chất chỉ thị axit-bazo Vấn đề 3: Ca dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ. Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào? Giải thích: Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: vụ chiêm ki lúa đang trổ đòng mà có trận mưa kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. Vì sao lại như vậy? Do trong không khí có 80% khí N2 và 20% khí O2, khi có chớp (có tia lửa điện) tạo điều kiện cho N2 hoạt động: N2 + O2 2NO 2NO +O2 2NO2 Khí NO2 tan vào nước mưa: 4NO2 + O2 +2H2O4HNO3 HNO3H+ + NO (đạm) Nhờ hiện tượng này cây cối được cung cấp một lượng đạm tự nhiên hàng năm với lượng 6-7kg nitơ cho mỗi ha đất. Ngày nay người ta đã chế ure (NH2)2CO để chủ động bón cho cây trồng và trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất là “hướng về không khí đòi lương thực” Áp dụng: Đây là câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân bón hóa học tạo cho học sinh ở nông thôn có thể tự kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan sát. Vấn đề 4: Vì sao trộn phân đạm một lá (NH4)2SO4, hai lá NH4NO3 hoặc nước tiểu với vôi trong Ca(OH)2 bị mất đạm? Giải thích: Vì NH3 bị mất mát do phản ứng: (NH4)2SO4 + Ca(OH)2 → 2NH3 ↑ + CaSO4 ↓ + 2H2O (1) 2NH4NO3 + Ca(OH)2 → 2NH3 ↑+ Ca(NO3)2 + H2O (3) Nước tiểu có chứa hàm lượng ure CO(NH2)2, vi sinh vật hoạt động chuyển ure thành (NH4)2CO3: CO(NH2)2 + 2H2O → (NH4)2CO3 (5) (NH4)2CO3 dễ bị phân hủy khi trời nắng theo phản ứng: (NH4)2CO3 → NH3 ↑ + CO2 ↑ + H2O Áp dụng: Câu hỏi này có tính thực tế rất cao, có thể đưa vào nội dung bài "Muối amoni " hoặc " Phân bón hóa học" Vấn đề 5 :Vì sao ăn sắn (củ mì) hay măng có khi bị ngộ độc? Giải thích: Ăn sắn hay măng bị ngộ độc khi chúng chứa nhiều axit xianhiđric (HCN). Ở dạng tinh khiết axit xianhidric là chất khí mùi hạnh nhân, có vị đắng và rất độc. Nhiệt độ nóng chảy là - 13,30C, tan trong nước, rượu, ete và là axit rất yếu. Trong thiên nhiên gặp ở dạng liên kết trong một số thực vật (hạt mận, đào, củ sắn, măng tươi). Sắn luộc hay măng luộc hoặc xào nấu có vị đắng là chứa nhiều axit xianhiđric, có nguy cơ bị ngộ độc. Khi luộc sắn cần mở vung để axit xianhiđric bay hơi. Sắn đã phơi khô, giã thành bột để làm bánh thì khi ăn không bao giờ bị ngộ độc vì khi phơi khô axit xianhiđric sẽ bay hơi hết. Trong công nghịêp axit xianhiđric được điều chế bằng cách oxi hoá hỗn hợp khí metan (CH4) và amoniac (NH3), có xúc tác platin. Axit xianhiđric là nguyên liệu điều chế tổng hợp các chất cao phân tử. Axit xianhiđric ở dạng tự do dùng làm chất xông hơi chống côn trùng gây bệnh. Muối của axit xianhiđric như kali xianua (KCN) dùng trong tổng hợp hữu cơ, trong nhiếp ảnh và để tách kim loại vàng, bạc ra khỏi quặng. Áp dụng: Cung cấp cho học sinh thêm một kiến thức về thực tiễn, để các em hiểu và phòng tránh, giúp học sinh hứng thú.Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này trong các bài giảng có liên quan đến xianua, như bài Nitơ hoặc hợp chất của Nitơ ở lớp 11. Vấn đề 6: Ma trơi là gì? Giải thích: Ma trơi chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất là: Trong xương động vật có chứa một hàm lượng photpho, khi chết phân hủy một phần thành khí PH3 (photphin). Khi có lẫn một ít điphotphin (P2H4), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu lửa bay trong không khí. PH3+4O2 --> P2O5 + 3H2O (cháy sáng) Điều trùng lặp ngẫu nhiên là người ta gặp “ma trơi” tại các nghĩa địa càng làm tăng thêm tính chất kịch tính. Áp dụng: Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về photpho để giải thích hiện tượng “ma trơi” trong đời sống tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống lành mạnh. Vấn đề 7: Tại sao khi quẹt diêm thì que diêm bốc cháy ? Giải thích: Thuốc ở đầu que diêm chứa các chất oxi hóa mạnh như K2Cr2O7, KClO3, MnO2... và các chất khử như S, tinh bột... Thuốc ở vỏ bao diêm chứa P đỏ, Sb2O3... Để tăng độ ma sát người ta trộn bột thủy tinh nghiền mịn vào cả hai thứ thuốc trên. Khi quẹt que diêm, những hạt nhỏ P tác dụng với các chất oxi hóa, phản ứng tỏa nhiều nhiệt làm cháy thuốc ở đầu que diêm, rồi sau đó que diêm bốc cháy theo. Áp dụng: Giúp học sinh thấy tầm quan trọng của Hóa học với đời sống con người.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mon_hoa_hoc_lop_11_bang_viec.doc
- BAN CAM KET.doc
- bia Hóa Hoc.doc
- MUC LUC.doc