SKKN Một vài giải pháp quản lý chỉ đạo việc vận động học sinh bỏ học, hay nghỉ học đến trường tại trường Tiểu học Võ Thị Sáu
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Trong các bậc học thì tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh.
Trong những năm gần đây, Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Ngành giáo dục, chính quyền các xã, thị trấn, các trường thực hiện công tác huy động học sinh trong độ tuổi đến trường, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nâng cao chất lượng giáo dục và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy tình trạng học sinh bỏ học, nghỉ học theo mùa vụ, nghỉ học không lý do vẫn còn xẩy ra khá nhiều trên địa bàn huyện nhất là các trường có nhiều học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số.
Để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, hay nghỉ học, UBND huyện đã có những chỉ đạo cụ thể đến các phòng, ban, ngành liên quan của huyện, UBND các xã, thị trấn đối với những nhiệm vụ liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt là công tác duy trì sĩ số và huy động học sinh trở lại lớp. Tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với giáo dục đến mọi người dân. Để có sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ, UBND huyện đã có một số văn bản chỉ đạo như: Quyết định số 3525/QĐ-UBND, ngày 30/10/2017 về việc kiện toàn ban chỉ đạo “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2013 -2020”, Quyết định số 3524/QĐ-UBND, ngày 30/10/2017 về việc kiện toàn ban chỉ đạo Giáo dục huyện, Báo cáo số 220/BC-UBND ngày 29/8/2017 về công tác duy trĩ sĩ số, huy động học sinh bỏ học trở lại lớp và định hướng cho những năm tiếp theo.
Việc vận động học sinh đến trường là một chủ trương lớn của Ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước.
Phần thứ nhất: PHẦN MỞ ĐẦU I.ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nền giáo dục hiện nay, phát triển toàn diện là mục tiêu mà Đảng, nhà nước, các ban ngành, các cấp đặt ra và mong đợi. Cùng với việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh thì việc duy trì sĩ số là vô cùng quan trọng. Đối với trường có nhiều học sinh đồng bào dân tộc thiểu số như tiểu học Võ Thị Sáu, việc vận động học sinh bỏ học, hay nghỉ học thường xuyên tới trường lại càng cần thiết hơn. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ quan trọng ngành đặt ra cho mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học chính là công tác đảm bảo duy trì sĩ số. Sự phối kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội là tiền đề đảm bảo cho việc duy trì sĩ số học sinh nói chung và học sinh dân tộc nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường nhất là ở cấp tiểu học. Trong những năm qua, các cấp, các ban ngành đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác huy động học sinh trong độ tuổi đến trường, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và nâng cao chất lượng giáo dục và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên hiện nay tình trạng học sinh bỏ học hoặc nghỉ học theo mùa vụ, nghỉ học không lý do trên địa bàn huyện vẫn còn khá cao nhất là ở vùng sâu, vùng xa vùng có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống trong đó có trường tiểu học Võ Thị Sáu. Để giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học, học sinh đi học chưa chuyên cần, nhà trường đã có những chỉ đạo cụ thể và phối hợp với các tổ chức trong và ngoài liên quan đối với công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt là công tác vận động học sinh đến trường nhằm duy trì sĩ số và huy động học sinh trở lại lớp. Năm học 2016-2017, là người quản lý chỉ đạo, tôi đã vận dụng một số biện pháp nhằm duy trì sĩ số đối với học sinh dân tộc thiểu số nhưng chưa có tính khả thi, chưa thực sự mang lại hiệu quả cao, học sinh vẫn nghỉ học nhiều, tỷ lệ chuyên cần chưa cao, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập. Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã không ít băn khoăn và muốn làm điều gì đó để góp phần nhỏ công sức của mình giúp các em có ý thức tới trường thường xuyên hơn, giảm thiểu một cách thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học. Năm học 2017-2018, tôi quyết tâm thực hiện đề tài “Một vài giải pháp quản lý chỉ đạo việc vận động học sinh bỏ học, hay nghỉ học đến trường tại trường tiểu học Võ Thị Sáu” với đối tượng nghiên cứu là giáo viên, học sinh trường Tiểu học Võ Thị Sáu - huyện Krông Ana – Đăk Lăk. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Bám sát với mục tiêu chung của Ngành giáo dục, trường tiểu học Võ Thị Sáu luôn nâng cao ý thức trong việc giảng dạy nhằm “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Việc duy trì sĩ số học sinh trong nhà trường, đặc biệt là vận động học sinh bỏ học, hay nghỉ học đi học trở lại đóng vai trò quan trọng được đặt ra không chỉ đối với nhà trường, với ngành giáo dục mà là vấn đề cần được sự quan tâm của toàn xã hội. Là người quản lý, khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi xác định mục tiêu chủ yếu sau: -Nghiên cứu thực trạng học sinh bỏ học, hay nghỉ học tại trường tiểu học Võ Thị Sáu. -Tìm ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến học sinh bỏ học, hay nghỉ học.. - Đưa ra một số giải pháp quản lý chỉ đạo nhằm vận động học sinh hay nghỉ học, bỏ học đến trường. - Đề xuất tổ chức thực hiện một số giải pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc thiểu số tại trường tiểu học Võ Thị Sáu, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ Trong các bậc học thì tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh. Trong những năm gần đây, Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Ngành giáo dục, chính quyền các xã, thị trấn, các trường thực hiện công tác huy động học sinh trong độ tuổi đến trường, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nâng cao chất lượng giáo dục và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy tình trạng học sinh bỏ học, nghỉ học theo mùa vụ, nghỉ học không lý do vẫn còn xẩy ra khá nhiều trên địa bàn huyện nhất là các trường có nhiều học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, hay nghỉ học, UBND huyện đã có những chỉ đạo cụ thể đến các phòng, ban, ngành liên quan của huyện, UBND các xã, thị trấn đối với những nhiệm vụ liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt là công tác duy trì sĩ số và huy động học sinh trở lại lớp. Tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với giáo dục đến mọi người dân. Để có sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ, UBND huyện đã có một số văn bản chỉ đạo như: Quyết định số 3525/QĐ-UBND, ngày 30/10/2017 về việc kiện toàn ban chỉ đạo “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2013 -2020”, Quyết định số 3524/QĐ-UBND, ngày 30/10/2017 về việc kiện toàn ban chỉ đạo Giáo dục huyện, Báo cáo số 220/BC-UBND ngày 29/8/2017 về công tác duy trĩ sĩ số, huy động học sinh bỏ học trở lại lớp và định hướng cho những năm tiếp theo. Việc vận động học sinh đến trường là một chủ trương lớn của Ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước. II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1.Thuận lợi Khi nghiên cứu đề tài này tôi nhận thấy, trường tiểu học Võ Thị Sáu có nhiều ưu thế để đẩy mạnh công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số như: Trong những năm qua, nhà trường nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành, của nhà nước như: Hỗ trợ chế độ chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc; hỗ trợ học sinh nghèo, học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số, chế độ học sinh khuyết tật có hoàn cảnh nghèo và cận nghèo. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viêncùng với đó là sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lí chỉ đạo: Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh... Đa số giáo viên tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm; phù hợp với môn, lớp mình phụ trách tạo ra giờ học sôi nổi, thu hút các em đến trường. Sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và Đào tạo, sự quan tâm của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, ban tự quản thôn buôn và sự vào cuộc mạnh mẽ của Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường. Lãnh đạo và các tổ chức trong trường năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhân viên tham gia các lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên đoàn kết, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Luôn phát huy tốt vai trò trách nhiệm của người thầy trên bục giảng, thường xuyên phối kết hợp với cha mẹ học sinh để theo dõi, vận động học sinh đến trường. Một số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập của con em, đưa đón con em đi học. Phòng học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ cho công tác dạy và học. 2. Khó khăn Trường tiểu học Võ Thị Sáu gồm 3 điểm trường, điểm lẻ Buôn Sha cách điểm chính khá xa, địa bàn dân cư rộng, đường đất trơn trợt về mùa mưa, bụi bẩn về mùa khô. Một số cha mẹ học sinh ít quan tâm do đó ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động của trường trong đó có công tác tuyển sinh. Thời gian tuyển sinh phải kéo dài hơn các trường thuận lợi, một số cha mẹ học sinh không tới trường buộc tổ tuyển sinh phải vào tận nhà. Học sinh đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm 97%, các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp; việc tiếp thu bài còn nhiều hạn chế. Một số gia đình làm thuê cho các cơ sở sản xuất gạch ngói tại Buôn Sha, Buôn Kô, Các cơ sở này đã thu hút một lượng lớn nhân công làm việc hàng ngày, trong đó có không ít lao động đang trong độ tuổi tiểu học. Một số em phải lo việc nương rẫy, đi đóng gạch, hái tiêu, cà phê mỗi khi vào mùa vụ. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội kéo theo các dịch vụ vui chơi, giải trí. Có không ít thiếu niên bị cuốn theo mặt trái của sự phát triển xã hội, tham gia vào các tệ nạn xã hội, từ đó, tình trạng đạo đức của một bộ phận học sinh ngày càng sa sút, chất lượng giáo dục chưa cao. Điều đó đã dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học, nhiều em miệt mài trên bàn máy chơi điện tử quên việc tới trường. Điều này đòi hỏi sự quan tâm vào cuộc của nhà trường, các ban ngành đoàn thể đặc biệt là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Với đặc thù trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số, vốn tiếng Việt của các em chưa nhiều, nhất là học sinh lớp 1, khả năng nghe nói tiếng phổ thông rất thấp. Một số em có hoàn cảnh đặc biệt như con mồ côi cả bố lẫn mẹ hoặc mồ côi bố, mồ côi mẹ nên thiếu sự quản lý, giáo dục. Ngôn ngữ bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Vì vậy, tăng cường tiếng Việt là việc làm cần thiết để góp phần giúp các em bổ trợ ngôn ngữ phổ thông, thêm tự tin trong học tập và các em thích đến trường. Đối với những trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số như trường Võ Thị Sáu, chất lượng mũi nhọn chưa theo kịp với các trường chuẩn, trường thuận lợi khác. Các em rất cần sự quan tâm của giáo viên Tổng phụ trách Đội và đội ngũ giáo viên phụ trách các chi đội, sao nhi đồng. Các em chưa có những sân chơi, bãi tập đúng yêu cầu. Việc tổ chức các trò chơi dân gian còn ít, các phong trào chưa được hấp dẫn và lôi cuốn các em đến trường. Công tác xã hội hóa giáo dục chưa phát huy mạnh mẽ; công tác phối kết hợp giữa nhà trường với chính quyền địa phương, các đoàn thể chưa chặt chẽ dẫn đến hiệu quả không cao. Sự phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh chưa tốt. Chưa phát huy tối đa giáo viên làm công tác cộng đồng, giáo viên dạy tiếng Êđê và tổ phổ cập trong việc vận động học sinh bỏ học, hay nghỉ học tới trường. Công tác phối kết hợp chưa được phát huy tối đa. Chưa tận dụng triệt để lực lượng hỗ trợ từ giáo viên làm công tác Cộng đồng, giáo viên dạy tiếng Êđê và một số lực lượng khác. Một số bộ phận giáo viên tinh thần trách nhiệm chưa cao. Sự quan tâm đến vấn đề học sinh nghỉ học chưa được chú trọng. Năm học 2016-2017 nhiều em nghỉ học dài ngày và có nguy cơ bỏ học. Các em gia đình ít quan tâm, bản tính ham chơi, lười học. Phải kể đến đó là em Y MinhHy Bkrông, H Uôm Êban (học sinh lớp 1 buôn Năc); em Y Lộc Niê, Y Tháp Niê ( học sinh lớp 3 buôn Sha) Thực trạng công tác duy trì sĩ số của trường Võ Thị Sáu tại thời điểm tháng 4 năm học 2016-2017 như sau: Khối TSHS HS nghỉ học không có lý do HS nghỉ học theo mùa vụ HS có nguy cơ bỏ học HS bỏ học Học sinh hoàn thành chương trình SL TL SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Khối 1 138 26 18,8 21 15,2 3 2,2 125 90,6 Khối 2 104 21 20,2 23 22,1 2 1,9 1 0,9 100 96,1 Khối 3 99 19 19,2 15 15,2 1 1.0 96 96,9 Khối 4 104 17 16,3 22 21,1 2 1,9 1 0,9 102 98,0 Khối 5 97 12 12,4 19 19,6 2 2,1 1 1,0 97 100 Tổng 542 95 17,5 100 18,5 10 1,8 3 0,6 520 95,9 III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Thứ nhất: Chỉ đạo làm tốt công tác tuyển sinh, vận động 100% học sinh trong độ tuổi ra lớp 1. Từ thực tế của công tác tuyển sinh còn gặp nhiều khó khăn trong năm học 2016-2017, trường đã lên kế hoạch để chủ động cho công tác tuyển sinh. Để chuẩn bị cho năm học 2017-2018, vào tháng 5/2017, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ phổ cập liên hệ với trường mẫu giáo trong địa bàn để nắm danh sách trẻ 6 tuổi sẽ vào lớp 1để kịp thời huy động tất cả đến trường. Tổ chức điều tra, thống kê số liệu học sinh 6 tuổi trong địa bàn 7 buôn trường mình phụ trách, nắm danh sách học sinh học tại địa bàn và học sinh có hộ khẩu trong xã đến học tại các trường bạn. Chỉ đạo tổ tuyển sinh và tổ phổ cập lập danh sách vào sổ lưu để theo dõi. Phối hợp với 3 trường mầm non trên địa bàn trường quản lý, có 3 trường mẫu giáo thuộc địa bàn tuyển sinh. Vào cuối tháng 5/2017, nhà trường đã kết nối với trường mẫu giáo CưPang, Micky và trường mẫu giáo Hoa Sen về công tác tuyển sinh. Trường tiểu học Võ Thị Sáu làm giấy mời phụ huynh học sinh lớp Lá, nhờ giáo viên ba trường mẫu giáo gửi giấy mời tuyển sinh vào lớp 1 trong buổi họp Cha mẹ học sinh cuối tháng 5 năm 2016-2017. Vào đầu tháng 6/2017, giáo viên cộng đồng cùng với ban tuyển sinh phải liên hệ với trường mẫu giáo trong địa bàn để nắm danh sách trẻ 6 tuổi sẽ vào lớp 1 trong năm học 2017-2018 để kịp thời huy động tất cả các em đến trường. Thực hiện nghiêm túc kế hoạch tuyển sinh, tổ chức điều tra, thống kê số liệu học sinh đầu năm, nắm danh sách học sinh học tại địa bàn và học sinh có hộ khẩu trong xã đến học tại các trường khác. Thực hiện tuyển sinh theo tuyến mà Phòng giáo dục quy định. Đối với những em chưa ra lớp, ban tuyển sinh phân nhiệm vụ cho từng thành viên phụ trách từng buôn đến tận nhà tìm hiểu nguyên nhân và thực hiện tuyển sinh tại nhà trong những trường hợp đặc biệt. Nhà trường xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể chỉ đạo giáo viên, các bộ phận trong nhà trường từng bước khắc phục khó khăn để vận động học sinh tới trường. Với việc quyết tâm thực hiện các giải pháp trên, năm học 2017-2018, trường đã hoàn thành công tác tuyển sinh trong 10 ngày với 128 em trong độ tuổi ra lớp, đạt tỉ lệ 100%. Nghiêm túc thực hiện công tác tuyển sinh theo địa bàn như Phòng giáo dục và UBND huyện chỉ đạo. Vào cuối tháng 6/2017, nhà trường lập danh sách học sinh trúng tuyển gửi Phòng giáo dục KrôngAna ra Quyết định công nhận. Lên kế hoạch sắp xếp học sinh vào các lớp khối 1 năm học 2017-2018 đúng quy định. Thứ hai : Chỉ đạo đội ngũ giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nắm bắt thực trạng học sinh trong lớp, kịp thời phát hiện học sinh có dấu hiệu nghỉ học. Để đảm bảo sĩ số học sinh thì công tác chủ nhiệm lớp chính là những giải pháp có tầm quan trọng lớn và hiệu quả nhất nhằm ngăn ngừa học sinh bỏ học, đi học chưa chuyên cần. Hiệu trưởng lên kế hoạch từ đầu năm đối với đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Ngay từ ngày đầu, giáo viên nhận lớp mình phụ trách phải có danh sách trích ngang ghi rõ họ tên, nghề nghiệp cha mẹ; độ tuổi. Nếu có em nhiều hơn một vài tuổi, giáo viên cần lưu ý và ghi tên vào sổ nhật ký theo dõi. Giáo viên cần tìm hiểu hoàn cảnh sinh sống của gia đình, nắm xem bao nhiêu em có hoàn cảnh khó khăn, bao nhiêu em có sổ hộ nghèo, cận nghèo...phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn thường xuyên nghỉ học hay có nguy cơ bỏ học. Hiệu trưởng chỉ đạo Phó Hiệu trưởng sắp xếp chuyên môn, bố trí những giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, có trình độ và trách nhiệm cao, là người địa phương hoặc thông thạo tiếng địa phương làm công tác chủ nhiệm lớp. Bước vào năm học mới, giáo viên chủ nhiệm liên hệ và kết hợp chặt chẽ với giáo viên phổ cập của trường để nắm tình hình các em có nguy cơ bỏ học ở các năm học trước, nắm bắt nguyên nhân tại sao học sinh vắng học hàng ngày trên lớp. Giáo viên chủ nhiệm nắm bắt hoàn cảnh, điều kiện học tập để theo dõi, nhằm có giải pháp hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời. Khi thấy những học sinh nào nghỉ học từ 2 buổi trở lên, giáo viên cần đến ngay gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của các em, đến nhà vận động các em đi học. Lập danh sách những học sinh có nguy cơ bỏ học báo ngay với Ban giám hiệu và buôn trưởng để các buôn trưởng vận động bố mẹ nhắc nhở các em đi học, không để tình trạng học sinh nghỉ học kéo dài. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh để nắm bắt tâm tư tình cảm của các em, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình từng học sinh để kịp thời động viên giúp đỡ các em, đồng thời vận động cha mẹ học sinh quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt hơn cho con em mình học tập. Giáo viên chủ nhiệm cần tôn trọng, gần gũi, ân cần, bao dung với thái độ nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc trong việc giáo dục các em. Không được sử dụng những lời lẽ nặng lời để phê phán, xúc phạm học sinh khi các em mắc lỗi, dễ dẫn đến tác động tiêu cực, học sinh tự ái bỏ học. Giáo viên chủ nhiệm lớp liên hệ với gia đình học sinh kiểm tra việc đi học, tỉ lệ chuyên cần của các em, sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực, biện pháp vận động phù hợp đưa các em tiếp tục đến trường, giúp các em tự tin và có tư tưởng, thái độ tốt hơn trong học tập. Ngoài ra giáo viên cần tích cực học tập tiếng Ê Đê để thuận lợi cho việc giao tiếp, trao đổi với cha mẹ học sinh nhằm phục vụ giảng dạy một cách tốt nhất. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn và các bộ phận trong nhà trường từng bước khắc phục khó khăn để vận động học sinh đi học chuyên cần, giảm thiểu một cách thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học, học sinh nghỉ học tùy tiện. Cùng với giáo viên bộ môn theo dõi chất lượng học tập hàng ngày và các bài kiểm tra định kì nhằm phân loại học sinh theo năng lực. Đặc biệt chú ý đến các học sinh đọc, viết yếu, tiếp thu chậm, nhà xa, hoàn cảnh khó khăn. Đây là các học sinh có nguy cơ bỏ học cao nhất cần phải có sự quan tâm định hướng. Năm học 2017-2018, nhiều lớp đã làm tốt công tác vận động học sinh đến trường như lớp 2B, cô Hoàng Thị Hồng vận động được 2 em có nguy cơ bỏ học trở lại lớp. Cô HNôch Byã (lớp 1E) vận động 1 em đã nghỉ học 2 tháng đến trường. Thầy Doãn Tiến Tám (lớp 5D) vận động được 2 em theo chị đi làm gạch trở lại lớp học. Thầy Y Huỳnh (4C), cô Nguyễn Thị Bích Thủy (5A) đã cảm hóa được phụ huynh 2 em vì hoàn cảnh khó khăn để con đi Sài Gòn làm thuê về lại trường học Hiệu trưởng phải là người theo dõi thường xuyên, có đánh giá cụ thể trong các cuộc họp hàng tháng, kịp thời nêu gương những giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác vận động học sinh đến trường, đảm bảo duy trì sĩ số, cuối năm có khen thưởng rõ ràng. Thứ ba: Chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho học sinh Đối với học sinh tiểu học đặc biệt là những trường có đông học sinh dân tộc thiểu số, việc tổ chức dạy tập nói tiếng Việt cho học sinh trước khi vào lớp 1 là cần thiết. Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị vào lớp 1, nhà trường chỉ đạo việc chuẩn bị tăng cường tiếng Việt cho trẻ; bố trí giáo viên dạy trước chương trình chính khóa ít nhất 2 tuần. Tăng thời lượng môn Tiếng Việt lớp 1 từ 350 tiết lên 500 tiết theo cách tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; điều chỉnh thời lượng dạy học các môn học khác để tập trung ưu tiên dạy hai môn Tiếng Việt,Toán nhằm nâng cao chất lượng học tập cũng như góp phần tạo niềm tin cho các em mỗi khi đến trường. Tại trường Võ Thị Sáu, có một số giáo viên là người dân tộc bản địạ. Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ để hướng dẫn các em thực hiện một số hoạt động học tập, vui chơi, sau đó dần dần chuyển sang sử dụng tiếng phổ thông. Tăng cường tổ chức các trò chơi, tạo môi trường giáo dục thân thiện, gần gũi giữa thầy và trò. Rèn cho học sinh ý thức phấn đấu vươn lên, kiên trì vượt khó để đi học đều và chăm học, mạnh dạn và tự tin tham gia các hoạt động học tập. Tăng cường công tác Đoàn Đội, các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khoá, tạo không khí vui tươi trong nhà trường, gây hứng thú học tập cho học sinh, qua đó rèn luyện thói quen sinh hoạt tập thể có nền nếp và mở rộng môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt. Chỉ đạo giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh từng lớp; chú trọng dạy học theo phân hóa đối tượng học sinh; tận dụng tối đa kênh hình và đồ dùng tự làm, sẵn có để sử dụng trong giảng dạy. Tạo mọi điều kiện về thời gian để học sinh được thực hành các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Tăng thời lượng dạy học môn Tiếng Việt. Sử dụng triệt để các đồ dùng được cấp phát
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_vai_giai_phap_quan_ly_chi_dao_viec_van_dong_hoc_sin.doc