SKKN Một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh
Hiện nay, việc tập luyện và tham gia thi đấu điền kinh đã trở thành truyền thống hàng năm thu hút đông đảo học sinh tham gia tập luyện và thi đấu. Nội dung giảng dạy điền kinh trong nhà trường phổ thông cũng rất đa dạng và phong phú.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững vàng, có sức khoẻ tốt để theo kịp sự phát triển của thế giới. Đặc biệt với sức khoẻ là tài sản vô giá của mỗi công dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định : “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản, để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế bền vững”.
Điều đó càng chứng tỏ trách nhiệm to lớn của ngành Giáo dục và đào tạo. Nhà trường và xã hội phải đảm bảo phát triển con người một cách toàn diện về sức khoẻ và trí tuệ. Giúp thế hệ trẻ có kiến thức ngang tầm thời đại, có tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi, có ý thức vươn lên trong học tập, có sức khoẻ tốt để có thể làm chủ tương lai đất nước.
Ở nước ta, Đảng và nhà nước thể hiện sự quan tâm đó bằng nhiều chủ trương chính sách, nhằm khuyến khích việc nâng cao sức khoẻ cho mọi công dân, đặc biệt là trong các trường phổ thông.
Chỉ thị 36-CT/TƯT ngày 24/03/1994 của ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục thể dục thể thao đã nêu rõ: “mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác giáo dục thể dục thể thao là hình thành nền thể dục thể thao phát triển, tiến bộ góp phần nâng cao sức khoẻ thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân, phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong hoạt động thể thao quốc tế, trước hết là khu vực Đông Nam Á.”
1. MỞ ĐẦU. 1.1. Lí do chọn đề tài. Hiện nay, việc tập luyện và tham gia thi đấu điền kinh đã trở thành truyền thống hàng năm thu hút đông đảo học sinh tham gia tập luyện và thi đấu. Nội dung giảng dạy điền kinh trong nhà trường phổ thông cũng rất đa dạng và phong phú. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững vàng, có sức khoẻ tốt để theo kịp sự phát triển của thế giới. Đặc biệt với sức khoẻ là tài sản vô giá của mỗi công dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định : “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản, để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế bền vững”. Điều đó càng chứng tỏ trách nhiệm to lớn của ngành Giáo dục và đào tạo. Nhà trường và xã hội phải đảm bảo phát triển con người một cách toàn diện về sức khoẻ và trí tuệ. Giúp thế hệ trẻ có kiến thức ngang tầm thời đại, có tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi, có ý thức vươn lên trong học tập, có sức khoẻ tốt để có thể làm chủ tương lai đất nước. Ở nước ta, Đảng và nhà nước thể hiện sự quan tâm đó bằng nhiều chủ trương chính sách, nhằm khuyến khích việc nâng cao sức khoẻ cho mọi công dân, đặc biệt là trong các trường phổ thông. Chỉ thị 36-CT/TƯT ngày 24/03/1994 của ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục thể dục thể thao đã nêu rõ: “mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác giáo dục thể dục thể thao là hình thành nền thể dục thể thao phát triển, tiến bộ góp phần nâng cao sức khoẻ thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân, phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong hoạt động thể thao quốc tế, trước hết là khu vực Đông Nam Á.” Do vậy giáo dục sức khoẻ cho con người là một trong những nội dung quan trọng không chỉ của nghành giáo dục và đào tạo mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội, với mục đích: “ Đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành một con người mới, có sức khoẻ tốt, có thể lực cường tráng, có dũng khí kiên cường, để tiếp tục sự nghiệp của Đảng một cách đắc lực và sống một cuộc sống vui tươi lành mạnh”. Điền kinh là một môn thể thao khá phổ biến. Là những môn thi đấu chính của các kỳ đại hội Olimpic quốc tế, đại hội thể dục thể thao (TDTT) trong nước. Trong nhà trường phổ thông điền kinh là môn có nhiều nội dung chủ yếu trong chương trình học. Như chúng ta đã biết thành tích của các môn phụ thuộc vào tốc độ bay ban đầu và góc độ bay nhưng không thể bỏ qua hai yếu tố đó là kỹ thuật và thể lực. Hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, có tác dụng thúc đẩy để đạt thành tích cao. Đặc biệt là yếu tố kỹ thuật, qua kinh nghiệm thực tế của các huấn luyện viên lâu năm và các công trình nghiên cứu khoa học thể dục thể thao của các tác giả trong nước đã chứng minh rằng động tác kỹ thuật càng thành thục, chính xác thì càng tiết kiệm được sức, vận dụng và phát huy được khả năng dùng sức của cơ thể giúp nâng cao thành tích của mình. Trong các môn của điền kinh, nhảy xa là một trong số các môn có lịch sử phát triển lâu đời. Từ phương pháp để người xưa vượt qua các hào rãnh trong săn bắn, hái lượm... Nhảy xa dần trở thành một phương tiện rèn luyện để phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là tốc độ, sức mạnh tốc độ, sự phát triển linh hoạt, khéo léo và trở thành một môn thể thao. Lịch sử điền kinh hiện đại ghi nhận cuộc thi đấu nhảy xa chính thức đầu tiên được tổ chức tại nước Anh năm 1864 và vận động viên Mai Cơ lập thành tích 5,48m. Nhảy xa là môn thể thao được sử dụng trong giảng dạy và huấn luyện tại các cấp học phổ thông, là môn thể thao luôn được lựa chọn là nội dung thi đấu chính thức tại các giải thi đấu thể dục thể thao của thế giới nói chung và của các giải thể dục thể thao cấp trường học như: Olympic, Asiad games, Asian games, Hội khỏe phù đổng... Trong các kỹ thuật nhảy xa thì nhảy xa ưỡn thân là nội dung thường được các vận động viên có trình độ cao lựa chọn để thi đấu. Đây là kỹ thuật phức tạp, hoạt động không mang tính chu kỳ, đòi hỏi người tập phải nắm vững những tư duy động tác đồng thời thực hiện động tác một cách nhịp nhàng, thuần thục. Những năm gần đây Bộ giáo dục và đào tạo đã không ngừng cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy và tập luyện môn điền kinh nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng. Nhưng với thực tế tại trường THPT Lam Kinh, do cơ sở vật chất còn hạn chế, đối tượng học sinh đa phần là con em nông dân. Đặc biệt là học sinh nữ, ở lứa tuổi này các em đang phát triển tâm sinh lý lứa tuổi chính vì thế việc lựa chọn phương pháp tập luyện phù hợp cho học sinh nữ của trường luôn làm tôi băn khoăn trăn trở làm thế nào để các em tập luyện nội dung nhảy xa kiểu “ưỡn thân ”có hiệu quả nhất. Chính vì những lý do đó tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.2.1. Tìm một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh. 1.2.2. Bằng thực nghiệm sư phạm, vận dụng vào giảng dạy và đánh giá điểm thi của học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh – Thọ Xuân – Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu Đây là phương pháp tổng hợp các nguồn thông tin và thu thập tài liệu về vấn đề mà đề tài nghiên cứu, là cơ sở lý luận để tiến hành giải quyết các mục tiêu nghiên cứu. 1.4.2. Phương pháp phỏng vấn Sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập và sử lý thông tin ban đầu 1.4.3. Phương pháp quan sát sư phạm Tiến hành quan sát nắm những diễn biến cụ thể, ghi chép lại thành văn bản, đánh giá kết quả học tập ở mỗi buổi học, từ đó ứng dụng phương pháp sát với đối tượng nghiên cứu, đảm bảo tính khoa học trong ứng dụng và quá trình giảng dạy. 1.4.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm Đề tài sử dụng những nội dung kiểm tra nhằm đánh giá kết quả trước và sau thực nghiệm. 1.4.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Sau khi lựa chọn một số phương pháp nâng cao thành tích, đề tài sử dụng phương pháp thực nghiệm và so sánh kết quả song song để kiểm tra tính khoa học và tính hiệu quả của phương pháp đã chọn. 1.4.6. Phương pháp toán học thống kê Sử dụng phương pháp này để phân tích và xử lý số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu đề tài. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể chất. Từ khi giải phóng Miền Nam thống nhất tổ quốc. Năm 1975 đến năm 1985 công tác TDTT đã được Đảng và nhà nước quan tâm một cách thường xuyên để phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tại chỉ thị 227 CT/TW ngày 18/11/1975 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra toàn diện về mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm xây dựng và phát triển sự nghiệp TDTT để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và ổn định an ninh xã hội, quốc phòng, xây dựng con người mới, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Tiếp sau đó đầu năm 1979 Bộ Chính trị ban hành nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, trong đó đã yêu cầu ngành giáo dục chăm lo hơn nữa việc dạy thể dục và phát động phong trào “Thể dục - Vệ sinh - Yêu nước” trong các nhà trường để củng cố và tăng cường sức khoẻ cho học sinh, sinh viên. Trong những năm 1975-1985 các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), lần thứ V (1982) luôn luôn xác định vai trò, vị trí của TDTT trong nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng con người có sức khoẻ, có đạo đức, có văn hoá để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, trong đó quan tâm công tác giáo dục thể chất cho học sinh sinh viên là nhiệm vụ mang tính chiến lược của ngành thể dục thể thao. Chính vì vậy, năm 1983 Chính phủ đã cho phép Bộ Giáo dục, Tổng cục Thể dục thể thao phối hợp với các đoàn thể Thanh - thiếu niên - nhi đồng tổ chức Hội khoẻ phù đổng toàn quốc lần thứ nhất để biểu dương phong trào rèn luyện thân thể, tập luyện thể thao của học sinh cả nước. Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ nhất năm 1985 các đoàn thể thao học sinh, sinh viên đã tham gia thi đấu và đạt thành tích cao, nhiều học sinh, sinh viên đã giành được thành tích xuất sắc, giữ nhiều kỷ lục quốc gia. Bước vào thời kỳ đổi mới khởi đầu từ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) trong công tác thể dục thể thao nói chung và công tác giáo dục thể chất trong các trường học luôn luôn được Đảng - Nhà nước quan tâm đầu tư và chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học là một yêu cầu cấp bách để bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế an ninh quốc phòng trong điều kiện và nhiệm vụ mới của đất nước trên con đường đổi mới. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Trong đó, trí dục, đức dục được coi là những vấn đề hệ trọng nhằm giáo dục hình thành nhân cách người học sinh - sinh viên - người chủ tương lai của đất nước, những người lao động phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong những năm tới. Nghị quyết Trung ương khoá VII đã khẳng định: “Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu... Chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI... Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không chỉ phát triển về trí tuệ trong sáng, về đạo đức lối sống mà phải là con người cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục - đào tạo, y tế và TDTT”. 2.1.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 16 - 18. Học sinh các trường phổ thông trung học (PTTH) thường ở lứa tuổi 16 - 18. Để có cơ sở khoa học cho việc lựa chọn các bài tập phát triển sức mạnh tốc độ chúng ta cần tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi 16 - 18 có liên quan tới việc tập luyện TDTT nói chung và với việc phát triển sức mạnh tốc độ nói riêng. + Đặc điểm về sinh lý ở lứa tuổi 16 - 18. * Đặc điểm phát triển của hệ thống thần kinh. Do hệ thống thần kinh là một hệ thống phát triển sớm của cơ thể, vì vậy ở lứa tuổi 16 - 18 trọng lượng não của các em đã đạt mức từ 1480 gam đến 1490 gam tương đương với trọng lượng não của người trưởng thành. Chức năng của các trung khu như: Thị giác, thính giác, xúc giác, cảm giác, trung khu vận động ... tương đối hoàn thiện. Vì vậy các em có thể nhanh chóng học hỏi nâng cao tri thức và các kỹ năng của cuộc sống, trong đó có kỹ năng vận động thể thao. Cũng chính do hệ thống thần kinh được hoàn thiện tương đối nên ở lứa tuổi 16 - 18 các em có thể hình thành tư duy trừu tượng và tư duy lô gíc. Quá trình hưng phấn và ức chế được cân bằng hơn. Tuy vậy cường độ quá trình hưng phấn vẫn cao hơn. Đó là điều kiện rất tốt để phát triển các tố chất thể lực nhất là sức mạnh, sức bền ... Đồng thời cũng dễ dàng nắm vững được các kỹ thuật khó, tạo tiền đề cho việc nâng cao thành tích thể thao. * Đặc điểm phát triển của cơ quan vận động. Cơ quan vận động của cơ thể chủ yếu gồm cơ bắp xương khớp và dây chằng. - Về hệ xương: Do quá trình cốc hoá của cơ thể thường kéo dài tới 20 tuổi. Vì vậy ở tuổi 16 - 18 vẫn còn ở trong thời kỳ phát triển của xương. Tuy vậy thành phần hữu cơ trong xương giảm dần và thành phần vô cơ tăng dần làm cho xương cứng và chịu tải tốt hơn. Ở lứa tuổi 16 - 18 chiều cao trung bình hàng năm của nam chỉ khoảng 1,7 cm còn ở nữ thấp hơn. - Hệ cơ: Nhìn chung ở giai đoạn 16 - 18 sự phát triển của hệ cơ ở nam và nữ đều có xu hướng phát triển hoàn thiện các nhóm cơ nhỏ, tăng thiết diện các nhóm cơ lớn làm cho sức mạnh tăng lên rõ rệt. Theo nghiên cứu của các nhà sinh lý thể thao nước ngoài như Macslốp (Nga), Dương Tích Nhượng (Trung Quốc) thì ở lứa tuổi 16 tỷ lệ cơ bắp so với trọng lượng cơ thể của nam đạt tới 32,6% nữ 34,8% đến tuổi 18 nam có thể đạt 44,2% nữ ít hơn. Song ở nữ 16 - 18 nếu lượng vận động thấp sẽ làm cho lượng mỡ phát triển nhanh ảnh hưởng tới sự phát huy sức mạnh cơ bắp. Ở thời kỳ 16 - 18 tuổi do quá trình trao đổi chất rất phồn thịnh nên cơ bắp nếu tập luyện hợp lý sẽ có thể tích luỹ được một lượng lớn các chất giàu năng lượng như: ATP, CP và Glucogen tạo tiền đề nâng cao trình độ sức mạnh, tốc độ và sức bền cơ bắp. Riêng giây chằng và khớp của vận động viên ở lứa tuổi này nếu không duy trì tập mềm dẻo thường xuyên hợp lý có thể làm cho linh hoạt khớp bị giảm xuống. Từ đó làm giảm biên độ động tác... * Đặc điểm phát triển hệ thống tim mạch. Ở tuổi 16 - 18 tim phát triển to hơn, thành cơ tim dày lên, van tim phát triển tốt làm cho cơ tim bóp mạnh hơn làm cho cung lượng tim lớn hơn, tần số mạch đập thấp xuống mức 66 - 72 lần/phút. Gần tương đương mạch đập của người trưởng thành. Trọng lượng tim đạt từ 250 đến 305 gam ... Cung lượng tim khoảng 45 đến 60ml, lưu lượng phút khoảng 3250 - 3600 ml, huyết áp khoảng 105/66 đến 109/69. Thành mạch vững chắc, mao mạch phát triển. Với sự phát triển đó đã làm cho các em có thể tập luyện được với lượng vận động lớn, cường độ cao, từ đó góp phần nhanh chóng nâng cao được trình độ kỹ thuật, thể lực, trong đó có sức bền tốc độ. * Đặc điểm phát triển hệ thống hô hấp. Ở tuổi 16 - 18 hệ thống hô hấp đã phát triển gần đạt trình độ của người trưởng thành. Tần số hô hấp giảm còn 18 - 19 lần phút do dung tích sống tăng và VO2max tăng. Dung tích sống của nam đạt khoảng 3240 - 3300ml. Nữ khoảng 3800 - 2900ml. Chính nhờ sự tăng lớn của dung tích sống cũng như năng lực hấp thụ oxy tối đa và năng lực chịu đựng nợ oxy của các em 16 - 18 tuổi được nâng cao làm cho sức bền ưa khí tăng qua đó góp phần tăng sức mạnh tốc độ của vận động viên. Một đặc điểm sinh lý nổi bật khác ở lứa tuổi 16 - 18 là sự phát triển giới tính. Do các hoóc môn giới tính phát triển làm cho sự phát triển cơ thể cũng có nhiều khác biệt giữa nam và nữ. Ở nữ ngực và mông phát triển, cũng như xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt làm ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả huấn luyện phát triển sức mạnh tốc độ và các tố chất thể lực khác ... + Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 16 - 18. Đặc điểm nổi bật về tâm lý của lứa tuổi 16 - 18 là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cả 2 nhân tố bên trong và bên ngoài. * Nhân tố bên trong gồm các yếu tố như sự khát vọng ham muốn hiểu biết, khám phá thế giới trong đó có sự thử sức với các hoạt độg TDTT. Vì vậy TDTT đã có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với các em. Ở tuổi 16 - 18 là giai đoạn các em luôn muốn thể hiện mình là "người lớn" nên mọi hành động của các em đều bắt chước người lớn. Chính điều này đã tạo ra động lực cho các em hưng phấn trong quá trình hoạt động, khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh. Ở tuổi 16 - 18 về tình cảm do các em thích làm người lớn vì vậy mà các biểu hiện nghĩa hiệp, sự vui buồn chia xẻ thường đan xen nhau. Các em có thể vui khi được thoả mãn các mong muốn của mình song cũng rất bất bình khi bị xúc phạm. Trong mọi hoạt động của cuộc sống, đặc biệt là trong hoạt động TDTT tính hiếu thắng của các em biểu hiện rất rõ rệt. Các em thường vui sướng hứng khởi, tự hào rất cao khi giành được chiến thắng và gặp thuận lợi trong cuộc sống. Song lại hay chán nản bất mãn hoặc giảm xút ý chí khi gặp khó khăn hoặc thất bại. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy huấn luyện thể thao cho các em giáo viên, huấn luyện viên phải kịp thời nắm bắt diễn biến tình cảm của các em để có thể điều chỉnh uốn nắn kịp thời. Chỉ có như vậy mới có thể đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy huấn luyện. Ở tuổi 16 - 18 do quá trình hưng phấn và ức chế của các em thăng bằng hơn nên đã kéo dài được thời gian tập trung chú ý. Các nhà tâm lý học TDTT cũng đã nghiên cứu và cho thấy: Nếu như thời gian tập trung chú ý của các em dưới 15 chỉ khoảng 30 phút thì ở tuổi 15 - 17 đã có thể tăng lên 40 - 45 phút. Sự tập trung chú ý tăng lên sẽ giúp các em có thể học tập kỹ thuật và phát triển các tố chất sức nhanh, sức mạnh tốt hơn. Ở tuổi 16 - 18 quá trình nhận thức của các em cũng được nâng cao rõ rệt. Các em có thể nhận thức được cái hay, cái đẹp của sự vật, cái đúng, cái sai của một vấn đề một cách bản chất hơn. Tuy nhiên, những nhận thức này còn có tỷ lệ chuẩn mực chưa cao và độ sâu sắc chưa đạt mức của người trưởng thành. Riêng ở tuổi này do giới tính mà tâm lý của nam và nữ đã có sự khác biệt tính nhạy bén, độ chín chắn trong các nhận thức ở nữ cao hơn. Song nữ cũng dễ tự ti và tự ái hơn nam. Những yếu tố này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả giảng dạy, huấn luyện TDTT đối với nữ. * Về nhân tố bên ngoài bao gồm các yếu tố từ ngoại cảnh tác động đến tâm lý của các em 16 - 18 tuổi. Thứ nhất là do đặc thù của thể thao là có tính cạnh tranh quyết liệt biểu hiện rõ rệt trong sự thi đấu để giành phần thắng. Chính tác động của các hoạt động thi đấu đã tạo cho các em một mơ ước, một khát vọng chiến thắng, từ đó tạo thành một thứ tình yêu nghề nghiệp, lòng hăng say tập luyện. Cũng chính do tính ham hiểu biết, mong muốn khám phá thế giới cũng như khát vọng giành chiến thắng ở các em rất cao nên một khi giành được một thắng lợi, tạo ra được một chiến tích lập nên một thành tựu nào đó, thường làm cho các em phấn chấn tự hào tự tin vào bản thân, tin vào huấn luyện viên. Và cũng chính từ đó dám dấn thân vào tập luyện thể thao. Tóm lại, sự phát triển và lớn lên về mặt sinh lý cũng là một quá trình làm cho tâm lý của các em được hoàn thiện. Quá trình phát triển về sinh lý và tâm lý của các em có tính giai đoạn. Nắm vững được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em để sử dụng các đối sách giảng dạy huấn luyện hợp lý là tiền đề của sự nâng cao hiệu quả giảng dạy huấn luyện của các giáo viên và huấn luyện viên thể thao. Qua nghiên cứu, tìm hiểu dự giờ dạy của giáo viên và một số giáo án giảng dạy thể dục, chúng tôi nhận thấy các giáo viên đã tuân thủ theo đúng chương trình và phương pháp giảng dạy của phổ thông. Tuy nhiên giáo viên còn thiên về giảng dạy cơ bản, còn ít sử dụng các bài tập nâng cao thành tích trong giảng dạy và huấn luyện nhảy xa, vì nhảy xa ưỡn thân là kỹ thuật khó. Nên việc nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nâng cao thành tích trong nhảy xa ưỡn thân còn hạn chế. Tóm lại, cơ sở vật chất dành cho giảng dạy giáo dục thể chất của nhà trường là tương đối khang trang. Tuy nhiên phương pháp sử dụng trong giảng dạy và huấn luyện giáo dục thể chất của giáo viên còn ít sử dụng các bài tập nâng cao thành tích, đặc biệt là với nội dung nhảy xa ưỡn thân. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Từ việc điều tra thực trạng của học sinh học nội dung nhảy xa “ưỡn thân” như: kỹ thuật thực hiện động tác, thành tích đạt được trước khi nghiên cứu. Qua đó đưa ra nhận định và đưa ra phương pháp tập luyện cho hạc sinh thích hợp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Những năm học vừa qua tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy môn thể dục tại trường THPT Lam Kinh. Qua thực tế công tác tôi nhận thấy thực trạng häc sinh học môn thể dục nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng, đa phần học sinh chưa tích cực tập luyện, chưa xem tập luyện thể dục thể thao là cách tốt nhất để rèn luyện sức khỏe. phát triển thể lực. Đặc biệt là học sinh nữ ở lứa tuổi 16-18 các em đang trong quá trình phát triển tâm sinh lý, vì thế các em hay e thẹn, rụt rè khi tập luyện, đôi khi trang phục tập luyện chưa đúng do các em còn phải học các môn văn hóa ở trong lớp. Mặt khác đôi khi giáo viên còn cứng nhắc trong giảng dạy. Vì vậy chưa gây được hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong tập luyện của học s
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_phuong_phap_tap_luyen_nham_nang_cao_thanh_tich_m.doc