SKKN Một số phương pháp ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – phần nghị luận xã hội

SKKN Một số phương pháp ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – phần nghị luận xã hội

Nhận thức rõ vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để khai thác nguồn lực này, một trong những chủ trương đó là đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các Đại hội trước, nhất là Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung ương VIII (khóa XI) về giáo dục và đào tạo, Đại hội XII tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”.

Ngày 9 tháng 9 năm 2014, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành Nghị quyết số 3538/QĐ- BGDĐT về việc phê duyệt phương án thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng từ năm 2015 nêu rõ: “Từ năm 2015 để tổ chức một kỳ thi quốc gia “Gọi là THPT quốc gia” lấy kết quả để xét công nhận tốt nghiệp THPT và làm căn cứ xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng” .

Môn Ngữ văn là một bài thi trong bốn bài thi của kỳ thi THPT quốc gia. Và hướng ra đề Ngữ văn của Bộ giáo dục và đào tạo theo hướng mở để đánh giá năng lực và phân loại trình độ của học sinh. Điều này tạo điều kiện để nhiều học sinh có khả năng vận dụng được những hiểu biết thực tế vào bài viết của mình cho sinh động, hấp dẫn.

 

doc 15 trang thuychi01 6270
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – phần nghị luận xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhận thức rõ vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để khai thác nguồn lực này, một trong những chủ trương đó là đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Kế thừa quan điểm chỉ đạo ở các Đại hội trước, nhất là Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung ương VIII (khóa XI) về giáo dục và đào tạo, Đại hội XII tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”.
Ngày 9 tháng 9 năm 2014, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành Nghị quyết số 3538/QĐ- BGDĐT về việc phê duyệt phương án thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng từ năm 2015 nêu rõ: “Từ năm 2015 để tổ chức một kỳ thi quốc gia “Gọi là THPT quốc gia” lấy kết quả để xét công nhận tốt nghiệp THPT và làm căn cứ xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng” .
Môn Ngữ văn là một bài thi trong bốn bài thi của kỳ thi THPT quốc gia. Và hướng ra đề Ngữ văn của Bộ giáo dục và đào tạo theo hướng mở để đánh giá năng lực và phân loại trình độ của học sinh. Điều này tạo điều kiện để nhiều học sinh có khả năng vận dụng được những hiểu biết thực tế vào bài viết của mình cho sinh động, hấp dẫn.
Phần nghị luận xã hội theo cấu trúc đề thi chiếm 2/10 điểm. Tuy số điểm không nhiều nhưng bài làm thể hiện cái tôi của người viết, quan điểm, nhân sinh quan về cuộc sống đời thường về cách nhìn của giới trẻ trong cách ứng xử, thể hiện quan điểm sống. Đây cũng là phần “gỡ điểm” của học sinh. 
Trên thực tế phần nghị luận xã hội ở kỳ thi 2014 – 2015, 2015 – 2016 là bài văn (khoảng 600 từ), ngữ liệu tách rời phần đọc hiểu. Nhưng ở kỳ thi 2016 – 2017 thì phần nghị luận xã hội chỉ còn là một đoạn văn (khoảng 200) , ngừ liệu lấy luôn ở phần đọc hiểu. Sự thay đổi đó đã có nhiều tích cực nhưng cũng tạo khó khăn cho học sinh trong việc sử dụng phương pháp làm bài. Việt 200 chữ mà chuyển tải được hết ý tứ của mình đáp ứng được bố cục bài làm là điều không phải dễ. Hơn nữa lâu nay các em đã quen với viết bài văn nghị luận. 
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số phương pháp ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – phần nghị luận xã hội” để nghiên cứu. Những kiến giải của sáng kiến kinh nghiệm sẽ góp phần rõ hơn phương pháp làm bài nghị luận xã hội, đồng thời có thêm tư liệu cho giáo viên và học sinh khi học tập và ôn luyện phần nghị luận xã hội. 
2. Đối tượng đề tài:
- Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ tập trung và nghiên cứu phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội trong cấu trúc đề thi Ngữ văn THPT quốc gia.
- Đối tượng thể nghiệm là học sinh lớp 12 học chương trình Ngữ văn chuẩn.
3. Mục đích nghiên cứu:
Sáng kiến kinh nghiệm “Một số phương pháp ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn – phần nghị luận xã hội” nhằm trao đổi với đồng nghiệp cách ôn luyện giúp học sinh nắm vững kiến thức, chủ động, bình tĩnh, tự tin bước vào kỳ thi đạt điểm cao.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài, tôi áp dụng các phương pháp chính:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh, tổng hợp.
PHẦN II: NỘI DUNG
A. Nội dung và phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội.
I. Lý thuyết về đoạn văn:
1. Thế nào là đoạn văn?
Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản ( các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.
Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn.
2. Kết cấu đoạn văn.
	Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ biến: quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh, nhân quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,	
2.1. Đoạn diễn dịch.
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
Ví dụ: “ Sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo.Tuy vậy, theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên một cách quá đáng. Điêù ấy không hợp với thơ và không phải phẩm chất của người làm thơ chân chính. Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa .Trong khi sáng tác nhà thơ không thể cứ chăm chăm: mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong bài thơ này, tập thơ nọ. Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm toàn ý bằng sự xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách tự nhiên, nhà thơ sẽ biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm bút”..
2.2. Đoạn quy nạp. Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Ví dụ: Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
	 Đêm nay rừng hoang sương muối
	 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 Đầu súng trăng treo.
 Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng. Bất chợt chiến sĩ ta có một phát hiện thú vị: Đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa. Trong sự tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui. Khẩu súng và vầng trăng là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất và hào hoa muôn thuở. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để đời.
2.3. Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Ví dụ: Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người. Hiện nay trên khắp đất nước ta đang dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng, những gia đình có công với cách mạng. Đảng và Nhà nước cùng toàn dân thực sự quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách. Thương binh được học nghề, được trợ vốn làm ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng được tặng nhà tình nghĩa, được các cơ quan đoàn thể phụng dưỡng, săn sóc tận tình. Rồi những cuộc hành quân về chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt sĩ đã hi sinh anh dũng vì độc lập, tự doKhông thể nào kể hết những biểu hiện sinh động, phong phú của đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Đạo lí này là nền tảng vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp. 
2.4. Đoạn so sánh 
a. So sánh tương đồng.
Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn, có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
Ví dụ 1: Ngày trước tổ tiên ta có câu: “ Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ Nguyễn Bá Học , một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này, vào đầu những năm 40, giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đã đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “ Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “ Gian nan rèn luyện mới thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta.
b. So sánh tương phản.
Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng: những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,tương phản nhau.
Ví dụ 1: Trong cuộc sống, không thiếu những người cho rằng cần học tập để trở thành kẻ có tài, có tri thức giỏi hơn người trước mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa vốn là giá trị cao quý nhất trong các giá trị của con người. Những người ý luôn hợm mình, không chút khiêm tốn, đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân: “ Tiên học lễ, hậu học văn”.
2.5. Đoạn nhân quả.
a. Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần, phần trước trình bày nguyên nhân, phần sau trình bày kết quả của sự việc, hiện tượng, vấn đề,
Ví dụ : Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta. Vì thế mới có đoạn hai, kể chuyện nàng Trương xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa.
b. Chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần. Phần đầu nêu kết quả, phần sau nêu nguyên nhân.
Ví dụ: Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết được tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy. Nàng biết sẽ còn bao cơn “ cát dập sóng vùi” nhưng nàng vẫn chỉ lo canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “ sân hoè đôi chút thơ ngây”). Bốn câu mà dùng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “ quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “ gốc tử”. Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiều đậm phần trang trọng, thiết tha và có chiều sâu nhưng cũng không kém phần chân thực. 
2.6. Đoạn vấn đáp.
Đoạn văn vấn đáp là đoạn văn có kết cấu hai phần, phần đầu nêu câu hỏi, phần sau trả lời câu hỏi. Nội dung hỏi đáp chính là chủ đề của đoạn văn. Trong kiểu kết cấu này, phần sau có thể để người đọc tự trả lời.
Ví dụ: Cứ đọc kĩ mà xem, sẽ thấy cái xót xa thấm đậm quay cuồng trong câu hỏi cuối: “ Những người muôn năm cũ”, những người ấy là những tâm hồn đẹp thanh cao bên câu đối đỏ của ông đồ, hay những ông đồ trên phố phường Hà Nội xưa(1)? Tôi nghĩ là cả hai(2). Thắc mắc của tác giả rất có lí, và chính vì có lí nên nó thật tàn nhẫn và đau lòng(3). Những cái đẹp cao quý sâu kín, cái đẹp của hồn người Hà Nội, cái đẹp của hồn Việt Nam cứ ngày càng mai một, càng bị cuộc sống với những quy tắc rất thực tế lấn át, chà đạp và xô đẩy sang lề đường để rồi biến mất như ông đồ già kia, và có lẽ sẽ mãi mãi không còn nếu như không có những Vũ Đình Liên đáng khâm phục(4). “Hồn ở đâu bây giờ”(5)? Câu hỏi ấy là tiếng chuông cảnh tỉnh người đọc ở mọi thế hệ mọi thời đại, thức dậy những gì sâu xa đã bị lãng quên, chon vùi dưới cuộc sống ồn ào náo nhiệt(6). Làm sao để tìm lại cái hồn thanh cao cho mỗi con người Việt Nam, để khôi phục lại cái hồn cho cả dân tộc, đó là điều nhà thơ Vũ Đình Liên muốn nhắn gửi chúng ta(7).
2.7. Đoạn đòn bẩy.
Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.
Ví dụ: Trong Truyện Kiều có hai câu thơ tả cảnh mùa xuân rất đẹp:
	 Cỏ non xanh rợn chân trời
	 	 Cành lên trắng điểm một vài bong hoa.
	 Thơ cổ Trung Hoa cũng có hai câu thơ tả cảnh đầy ấn tượng:
	 Phương thảo liên thiên bích
	 Lê chi sổ điểm hoa.
Tác giả Trung Quốc chỉ nói : “ Lê chi sổ điểm hoa” ( trên cành lê có mấy bông hoa). Số hoa lê ít ỏi như bị chìm đi trong sắc cỏ ngút ngàn. những bông lê yếu ớt bên lề đường như không thể đối chọi với cả một không gian trời đất bao la rộng lớn. Nhưng những bông hoa trong thơ Nguyễn Du là hoàn toàn khác: “ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Nếu như bức tranh xuân ấy lấy phông nền là màu xanh của của cỏ thì những bông hoa lê là một nét chấm phá vô cùng sinh động và tài tình. Sắc trắng của bông hoa lê – cái sắc trắng chưa từng xuất hiện trong câu thơ cổ Trung Hoa- nổi bật trên nền xanh tạo ra thanh khiết trong sáng vô cùng. Tuy chỉ là một vài chấm nhỏ trên bức tranh nhưng lại là điểm nhấn toả sáng và nổi bật trên bức tranh toàn cảnh. Những bông hoa “trắng điểm” thể hiện sự tài tình gợi tả gợi cảm trong lời thơ. Cành hoa lê như một cô thiếu nữ đang e ấp dịu dàng. Câu thơ cũng thể hiện bản lĩnh hội hoạ của Nguyễn Du. Hai sắc màu xanh và trắng hoà quyện với nhau trong bức tranh xuân vừa đẹp vừa dào dạt sức sống đầy xuân sắc, xuân hương và xuân tình).
2.8. Nêu giả thiết.
Đoạn văn nêu giả thiết là đoạn văn có kết cấu: mở đoạn nêu giả thiết, để từ đó đề cập tới chủ đề đoạn.
Ví dụ Giáo sư Phan Trọng Luận không sai khi nói: “ Cái bóng đã quyết định số phận con người”, đây phải chăng là nét vô lí, li kì vẫn có trong các truyện cổ tích truyền kì(1)? Không chỉ dừng lại ở đó, “ cái bóng còn là tượng trưng cho oan trái khổ đau, cho bất hạnh của biết bao người phụ nữ sống dưới xã hội đương thời(2). Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là những cái bóng mờ ảo, không bao giờ được sáng tỏ(3). Hủ tục phong kiến hay nói đúng hơn là cái xã hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn, bao nhân cách đẹp, đẩy họ đến đường cùng không lối thoát(4). Để rồi chính những người phụ nữ ấy trở thành “ cái bóng” của chính mình , của gia đình, của xã hội(5). Chi tiết “ cái bóng” được tác giả dùng để phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái nhưng cũng như bao nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống cho tiếng lòng của chính nhân vật được cất lên, được soi sáng bởi tâm hồn người đọc(5). “ Cái bóng” được đề cao như một hình tượng đẹp của văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người(6). Bạn đọc căm phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu thương đồng cảm với Vũ Nương bấy nhiêu(7). “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt vời từ tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện lên một tầm cao mới: chân thực hơn và yêu thương hơn(8).
2.9. Đoạn móc xích.
Đoạn văn có mô hình kết câu móc xích là đoạn văn mà ý các câu gối đầu lên nhau, đan xen nhau và được thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ ở câu trước trong câu sau.
Ví dụ: Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây gây rừng. Trồng cây gây rừng thì phải coi trọng chăm sóc, bảo vệ để có nhiều cây xanh bóng mát. Nhiều cây xanh bóng mát thì cảnh quan thiên nhiên đẹp, đất nước có hoa thơm trái ngọt bốn mùa, có nhiều lâm thổ sản để xuất khẩu. Nước sẽ mạnh, dân sẽ giàu, môi trường sống được bảo vệ.
II. Các dạng nghij luận xã hôi
1. Bàn vềhiện tượng đời sống:
1.1 Khái niệm
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người (như ô nhiễm môi trường, nếp sống văn minh đô thị, tai nạn giao thông, bạo hành xã hội...) đó có thể là hiện tượng tốt hoặc xấu đáng ken hoặc đáng chê.
- Để làm tốt kiểu bài này, học sinh cần phải hiểu hiện tượng đời sống được đưa ra nghị luận có thể có ý nghĩa tích cực, cũng có thể là tiêu cực, có hiện tượng vừa tích cực và tiêu cực... Do vậy cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đề để gia giảm liều lượng cho hợp lý, tránh làm bài chung chung.
- Phần mở bài cần giới thiệu hiện tượng đời sống và nghị luận.
- Phần thân bài có luận điểm 1, giải thích hiện tượng đời sống, làm rõ những hình ảnh từ ngữ khái niệm trong đề bài. Luận điểm 2 nêu rõ thực trạng. Luận điểm 3 lý giải nguyên nhân. Luận điều 4 đề xuất giải pháp. Luận điểm 5 liên hệ thực tế bản thân.
- Phần kết bài cần khái quát lại vấn đề nghị luận, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống.
1.2. Cấu trúc bài làm:
Hiện tượng xấu
Hiện tượng tốt
I. Mở bài: Nêu vấn đề
I. Mở bài: Nêu vấn đề
II. Thân bài
II. Thân bài
1. Giải thích hiện tượng
1. Giải thích hiện tượng
2. Bàn luận.
a. Phân tích tác hại
b. Chỉ ra nguyên nhân
c. Biện pháp khắc phục
2. Bàn luận.
a. Tác dụng ý nghĩa của hiện tượng
b. Biện pháp nhân rộng hiện tượng
c. Phê phán hiện tượng trái ngược
3. Bài học cho bản thân
3. Bài học cho bản thân
III. Kết bài: Đánh giá chung về hiện tượng
III. Kết bài: Đánh giá chung về hiện tượng
2. Bàn vềtư tưởng đạo lý:
2.1. Khái niệm:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh (các vấn đề về nhận thức, về tâm hồn nhân cách, về quan hệ xã hội...).
- Phần mở bài cần phải giới thiệu tư tưởng đạo lý phần nghị luận
- Phần thân bài cần có nhiều luận điểm: Luận điểm 1 cần giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý, giải thích từ ngữ khái niệm rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng đạo lý. Luận điểm 2 phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng đạo lý, tác dụng của tư tưởng đạo lý đối với đời sống xã hội. Luận điểm 3 bình luận mở rộng vấn đề bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lý.
- Phần kết nêu khái quát đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lý. Rút ra bài học nhận thức và hành động.
2.2. Cầu trúc làm bài:
Tư tưởng nhân văn
Tư tưởng phản nhân văn
I. Mở bài: Nêu vấn đề
I. Mở bài: Nêu vấn đề
II. Thân bài
II. Thân bài
1. Giải thích: Nếu là câu nói, ý kiến có hai vấn đề thì giải thích hai vế rồi giải thích cả câu
1. Giải thích: Nếu là câu nói, ý kiến có hai vấn đề thì giải thích hai vế rồi giải thích cả câu
2. Bàn luận
a. Tác dụng ý nghĩa của tư tưởng (chứng minh so sách đối chiếu phân tích để chỉ ra chỗ đúng).
b. Phê phán, bác bỏ tư tưởng trái ngược
2. Bàn luận
a. Tác hại của tư tưởng (chứng minh so sách đối chiếu phân tích để chỉ ra chỗ sai).
b. Biểu dương, ngợi ca
3. Bài học nhận thức và hành động.
- Về nhận thức ta có: đúng hay sai
- Về hành động ta cần: cần làm gì
3. Bài học nhận thức và hành động.
- Về nhận thức ta có: đúng hay sai
- Về hành động ta cần: cần làm gì
III. Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề
III. Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề
III. Cachs viết đoạn nghị luận xã hội ( khoảng 200 từ)
1. Các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội
Bước 1. Đọc kỹ đề
Theo như đề thi mẫu – phần nghị luận xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn 200 từ (cũng có khi là không). Nếu đề NLXH mà nằm trong đọc hiểu thì trước hết phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung, từ đó xem đề nghị luận 200 từ họ yêu cầu mình bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về Tư tưởng đạo lý hay Hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Leo lên đỉnh núi không phải để cắm cờ mà là để vượt qua thách thức, tận hưởng bầu không khí và ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn xung quanh. Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em. Hãy đến Paris để tận hưởng cảm giác đắm chìm trong Paris chứ không phải lướt qua đó để ghi Paris vào danh sách các địa điểm các em đã đi qua

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_on_thi_thpt_quoc_gia_mon_ngu_van_pha.doc