SKKN Một số phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

SKKN Một số phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

Kênh hình trong sách giáo khoa (SGK) Địa lí Trung học phổ thông (THPT) bao gồm các bản đồ, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ và các hình ảnh , Bản thân các kênh hình đó không chỉ có tác dụng minh họa làm cho sách sinh động hơn, trực quan hơn, mà nó còn nhằm tái tạo, bổ sung, khác sâu nội dung cho kênh chữ, giúp học sinh (HS) tiếp thu kiến thức một cách trọn vẹn. Ngoài ra kênh hình còn là một trong những phương tiện quan trọng nhằm tạo biểu tượng, phát huy tính tích cực của HS trong học tập, nó là một kênh khai thác kiến thực Địa lí rất hữu ích.

Chương trình và nội dung SGK Địa lí 11 cung cấp cho HS những kiến thức về khái quát nền kinh tế- xã hội thế giới, địa lí một số khu vực và quốc gia trên thế giới. Đây là những không gian địa lí mà HS rất khó có cơ hội tiếp cận và tìm hiểu trực tiếp. Vì vậy việc khai thác, phát hiện các kiến thức từ kênh hình (đặc biệt là các bản đồ, ảnh chụp, ) có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc học tập môn Địa lí lớp 11 của HS.

Tuy nhiên, thực tế giảng dạy ở trường THPT qua nhiều năm cho tôi thấy hầu hết GV đã có hướng khai thác các kênh hình trong SGK vào dạy học Địa lí, nhưng hiệu quả nhìn chung chưa cao. GV chưa khai thác hết kiến thức tiềm ẩn trong các kênh hình đó. Chính vì vậy mà khả năng đạt hiệu quả cao trong một tiết giảng dạy còn nhiều hạn chế.

Mặt khác, do điều kiện thực tế của Nhà trường còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, các phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, phục vụ cho dạy học chưa có nhiều. Do đó để nâng cao hiệu quả giảng dạy và khắc phục những khó khăn của Nhà trường, bản thân tôi là một GV, trong quá trình công tác tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với trình độ của từng đối tượng HS để giúp các em nắm vững kiến thức và luôn hứng thú học tập môn địa lí.

 

doc 23 trang thuychi01 19661
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂN NGHUYÊN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC
KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÍ 11 
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
Người thực hiện: Đỗ Thị Loan
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Địa lí
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Kênh hình trong sách giáo khoa (SGK) Địa lí Trung học phổ thông (THPT) bao gồm các bản đồ, lược đồ, biểu đồ, sơ đồ và các hình ảnh ,Bản thân các kênh hình đó không chỉ có tác dụng minh họa làm cho sách sinh động hơn, trực quan hơn, mà nó còn nhằm tái tạo, bổ sung, khác sâu nội dung cho kênh chữ, giúp học sinh (HS) tiếp thu kiến thức một cách trọn vẹn. Ngoài ra kênh hình còn là một trong những phương tiện quan trọng nhằm tạo biểu tượng, phát huy tính tích cực của HS trong học tập, nó là một kênh khai thác kiến thực Địa lí rất hữu ích.
Chương trình và nội dung SGK Địa lí 11 cung cấp cho HS những kiến thức về khái quát nền kinh tế- xã hội thế giới, địa lí một số khu vực và quốc gia trên thế giới. Đây là những không gian địa lí mà HS rất khó có cơ hội tiếp cận và tìm hiểu trực tiếp. Vì vậy việc khai thác, phát hiện các kiến thức từ kênh hình (đặc biệt là các bản đồ, ảnh chụp,) có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc học tập môn Địa lí lớp 11 của HS.
Tuy nhiên, thực tế giảng dạy ở trường THPT qua nhiều năm cho tôi thấy hầu hết GV đã có hướng khai thác các kênh hình trong SGK vào dạy học Địa lí, nhưng hiệu quả nhìn chung chưa cao. GV chưa khai thác hết kiến thức tiềm ẩn trong các kênh hình đó. Chính vì vậy mà khả năng đạt hiệu quả cao trong một tiết giảng dạy còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, do điều kiện thực tế của Nhà trường còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, các phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ,phục vụ cho dạy học chưa có nhiều. Do đó để nâng cao hiệu quả giảng dạy và khắc phục những khó khăn của Nhà trường, bản thân tôi là một GV, trong quá trình công tác tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với trình độ của từng đối tượng HS để giúp các em nắm vững kiến thức và luôn hứng thú học tập môn địa lí.
Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Một số phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh” làm đối tượng nghiên cứu nhằm góp một phần nhỏ bé của mình vào việc “bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn” (điều 24 Luật Giáo dục).
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy và rèn luyện thêm kiến thức, kĩ năng cho giáo viên.
Góp phần tạo hứng thú môn học, khắc sâu kiến thức, phát huy tính tự giác, độc lập và sáng tập của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình SGK Địa lí 11 ban cơ bản và giới hạn trong việc tạo kĩ năng khai thác, sử dụng kiến thức từ các hình vẽ trong SGK của học sinh và giáo viên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thử nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp quan sát qua các tiết dự giờ thao giảng.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí
Trong cấu trúc SGK Địa lí nói chung và SGK Địa lí 11 nói riêng gồm 2 phần là kênh chữ và kênh hình. Kênh chữ và kênh hình luôn đảm bảo tỉ lệ hợp lí giữa lí thuyết và thực hành. Mỗi thành phần thực hiện một số chức năng nhất định. Kênh chữ là thành phần cơ bản của SGK có liên hệ với thành phần ngoài bài viết. Bài viết Địa lí SGK thường mang tính chất giải thích minh họa và bao gồm các lí thuyết, giải thích, mô tả và các chỉ dẫnNhững thành phần ngoài bài viết của SGK có ý nghĩa về mặt phương pháp và kiểm tra đối với HS. Trong SGK còn có hệ thống câu hỏi và bài tập nhằm giúp HS nắm vững kiến thức, thiết lập các mối liên hệ và phụ thuộc, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Các câu hỏi bài tập giúp HS định hướng hoạt động tư duy của HS trong quá trình nắm vững tài liệu mới. [1]
Việc thực hiện các bài tập và câu hỏi trong SGK đòi hỏi HS phải dựa vào các nguồn kiến thức khác nhau, đó là kênh hình như biểu đồ, bản đồ, lược đồ, sơ đồ tranh ảnh,các kênh minh họa không chỉ có tác dụng cụ thể hóa bài viết mà còn là nguồn gây hứng thú đối với học sinh.
Như vậy kênh hình trong SGK Địa lí gồm nhiều loại là bản đồ, lược đồ, biểu đồ, các bảng số liệu và tranh ảnh. Mỗi loại có những cách thể hiện khác nhau nhưng đều cùng một mục đích là truyền đạt các kiến thức đến người học và rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
2.1.2. Vai trò của kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí
Kênh hình góp phần hỗ trợ việc cung cấp kiến thức, giảm tính trừu tượng của kiến thức, tạo điều kiện cần thiết cho học sinh thực hành để rèn luyện các kĩ năng.
Kênh hình giúp đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Giúp cho giáo viên hướng dẫn học sinh học kiến thức mới, rèn luyện kĩ năng
Ngoài ra còn hỗ trợ GV trong việc nâng cao kiến thức, kĩ năng và thiết kế bài dạy.
2.1.3. Một số yêu cầu khi sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lí
Kênh hình phải được sử dụng có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu về nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình giáo dục. Tập trung vào việc sử dụng kênh hình như một nguồn kiến thức, hạn chế dùng theo cách minh họa kiến thức.
Để có thể sử dụng tốt kênh hình Giáo viên cần: [3]
- Có kế hoạch chuẩn bị trước các kênh hình, nghiên cứu kĩ các kênh hình để hiểu rõ nội dung, tác dụng của từng loại kênh hình, tránh tình trạng khi lên lớp mới cùng học sinh tiếp xúc với kênh hình.
- Cần lựa chọn nội dung mang tính thiết thực đối với nội dung bài học, đồng thời sử dụng tối đa các nội dung đã được thể hiện trên mỗi kênh hình.
- Khi soạn bài cũng như khi lên lớp, Giáo viên cần phải xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập tương đối chính xác, rõ ràng để học sinh làm việc với các loại kênh hình nhằm lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng Địa lí.
- Giáo viên cần giúp học sinh nắm được trình tự các bước làm việc với từng loại phương tiện, thiết bị dạy học để tìm kiếm thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy.
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Về phía giáo viên
Qua khảo sát thực tế và dự giờ đồng nghiệp khi dạy các bài có kênh hình, tôi nhận thấy:
- Phần lớn giáo viên có quan niệm đúng về chức năng, vai trò của các kênh hình thể hiện trong việc chuẩn bị chu đáo về giáo án, yêu cầu, mục đích của các kênh hình là gì và thể hiện yếu tố nào của đối tượng địa lí.
- Hầu hết giáo viên đều đã vận dụng một cách sáng tạo khoa học kĩ năng sử dụng kênh hình cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, do đó đã pháp huy được tinh tư duy độc lập cho học sinh, giúp học sinh nắm vững, chắc nội dung bài học và giúp học sinh thêm yêu thích môn địa lí.
2.2.2. Về phía học sinh
Do quan niệm đây là môn phụ nên học sinh chưa đầu tư thời gian thích đáng cho việc học tập bộ môn, nếu không muốn nói là coi thường, số ít học sinh chăm học có ý thức song phương pháp học tập còn lúng túng, còn tình trạng học vét, ghi nhớ áy móc nên kiến thức không chắc, nhanh quên, không sáng tạo trong giải quyết vấn đề.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa địa lí 11
Chương trình Địa lí gồm hai phần chính là Khái quát nền kinh tế- xã hội thế giới và phần Địa lí khu vực và quốc gia. SGK Địa lí 11 được tập thể các tác giả biên soạn một cách công phu với hệ thống kênh hình phong phú và tiêu biểu, nó đảm bảo tỉ lệ hợp lí giữa kênh chữ và kênh hình. Nội dung phong phú, đa dạng nên học sinh đã có nhiều hứng thú hơn khi học bộ môn này.
Hệ thống kênh hình SGK Địa lí 11 có thể khái quát thành các nhóm gồm có:
- Hệ thống bản đồ, lược đồ: 30 cái, chủ yếu ở phần Địa lí các quốc gia, một số khu vực trên thế giới. Hệ thống bản đồ gồm có bản đồ tự nhiên, bản đồ dân cư và cả bản đồ kinh tế- xã hội của các nước, châu lục.
- Biểu đồ Địa lí cũng đầy đủ các dạng nhưng tập trung chủ yếu là biểu đồ tròn, cột, miền với 10 biểu đồ; thể hiện cơ cấu, sự chuyển dịch cơ cấu và so sánh sự phát triển của các hiện tượng kinh tế- xã hội của các nước.
- Hệ thống tranh ảnh nhiều hơn cả với 33 tranh ảnh; đây là những hình ảnh rất sinh động, thể hiện được những đặc trưng cả về tự nhiên, dân cư, kinh tế của các nước và khu vực.
- So với chương trình Địa lí 10 thì chương trình Địa lí 11 ít sơ đồ hơn nhiều chỉ với 7 sơ đồ. Sơ đồ cũng gồm nhiều loại như sơ đồ cấu trúc, sơ đồ lô gic và sơ đồ địa đồ học.
Ngoài ra SGK Địa lí 11 gồm có nhiều bảng số liệu thống kê và các bảng kiến thức. Bảng số liệu thống kê, bảng kiến thức bản thân nó vừa là kênh chữ, vừa là kênh hình chứa nhiều kiến thức Địa lí, đặc biệt là các bảng số liệu thống kê, nó cũng là một dạng kiến thức tương tự các biểu đồ Địa lí.
2.3.2. Cách sử dụng kênh hình SGK trong dạy học Địa lí
Như chúng ta đã biết kênh hình vừa có chức năng minh họa vừa có chức năng nguồn tri thức, nên trong dạy học Địa lí giáo viên cần phát huy tối đa các chức năng của kênh hình, giáo viên có thể sử dụng theo hai cách sau:
Thứ nhất, sử dụng kênh hình để minh họa hoặc giảng giải nội dung bài học: Khi giáo viên dạy bài mới, đến phần nội dung kiến thức cơ bản ngoài phần nội dung của kênh chữ trình bày, giáo viên xác định trên bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh,..để học sinh thấy rõ sự phân bố của các sự vật, hiện tượng và mối quan hệ nhân quả địa lí.
Ví dụ: Khi dạy bài 6 Địa lí 11: Hợp chúng quốc Hoa Kì, tiết 1: Tự nhiên và dân cư, ở mục I- Lãnh thổ và vị trị địa lí: Khi trình bày lãnh thổ rộng lớn gồm 3 bộ phận giáo viên cần khai thác hình 6.1 trang 37 để xác định cho học sinh 3 vùng lãnh thổ đó. Tuy nhiên, hình 6.1 chưa thể hiện rõ do đó chúng ta yêu cầu học sinh sử dụng thêm bản đồ “Các nước trên thế giới” trang 4 và 5 sẽ thấy rất rõ 3 bộ phận này, từ đó học sinh rát ra được 3 bộ phận này nằm tách biệt nhau.
Thứ hai, giáo viên sử dụng kênh hình như một cơ sở để học sinh tìm tòi, khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bằng cách đó, giáo viên hình thành và rẻn luyện cho học sinh phương pháp đọc bản đồ, lược đồ, phân tích biểu đồ và tranh ảnh.
Ví dụ: Khi dạy bài 3: Một số vấn đề mang tính toàn cầu, ở mục 2- Ô nhiễm nguồn nước ngọt, biển và đại dương: Phần ô nhiễm biển và đại dương, giáo viên cho học sinh quan sát hình 3 trang 15 và trả lời câu hỏi: Dựa vào hình 3 hãy cho biết nguyên nhân của ô nhiễm biển và đại dương và giải pháp cho vấn đề này là gì? Học sinh sẽ nghiên cứu hình 3 rút ra được nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm biển và đại dương là do vận chuyển dầu trên biển và giải pháp là phải đảm bảo an toàn giao thông đường biển
2.3.3. Khai thác hiệu quả kênh hình SGK trong dạy học Địa lí
2.3.3.1. Khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ
Sách giáo khoa Địa lí 11 gồm có 29 bản đồ trong 12 bài và một bản đồ các nước trên thế giới ở trang 4 và 5. Đây là loại thông tin rất trực quan mô tả về vị trí của lãnh thổ, các điều kiện tự nhiên và sự phân bố dân cư, kinh tế của mỗi đơn vị lãnh thổ.
Nói về kênh hình SGK thì bản đồ như một người “anh cả” có vai trò và ý nghĩa quan trọng dạy và học. Trước hết vì nó là kiến thức được “lí giải” bằng đường nét cụ thể nhất và được ví như SGK thứ hai trong tay người học và dạy. Các bản đồ, lược đồ SGK giúp HS bồi dưỡng năng lực tự học, tự tìm tòi nghiên cứu.
Để khai thác hiệu quả bản đồ, lược đồ trước tiên giáo viên phải nắm vững kiến thức và kĩ năng về bản đồ như xác định phương hướng, hiểu hệ thống kí hiệu của bản đồ thông qua bảng chú giải và màu sắc. Đó là những kiến thức cơ bản để GV và HS tiếp cận với bản đồ.
Kĩ năng bắt nguồn từ tri thức nên muốn dạy cho HS các kĩ năng đọc, hiểu và vận dụng bản đồ thì phải dạy các kiến thức tối thiểu về bản đồ, lược đồ.
GV phải nắm các bước đọc bản đồ, quan sát, phân tích để rút ra các nhận xét về các đối tượng, sự vật và các hiện tượng địa lí sâu sắc hơn. Để sử dụng có hiệu quả nó có các bước sau:
Bước 1: Cần xác định rõ mục đích sử dụng, khai thác lược đồ, bản đồ gì, từ đó đưa ra được cách sử dụng hợp lí.
Bước 2: Giáo viên cần hiểu rõ những kiến thức Địa lí được thể hiện trên lược đồ, bản đồ như : Tên bản đồ, chú giải, kí hiệu, quy ước, màu sắc,
Bước 3: Xác định được thời điểm hợp lí để tiến hành khai thác, sử dụng bản đồ, lược đồ trong tiến trình bài dạy. Chúng ta biết rằng trong SGK Địa lí không lúc nào kênh chữ và kênh hình cũng khớp nhau nghĩa là có thể phần kênh chữ ở trang này nhưng bản đồ vì chiếm diện tích lớn nên tác giả lại bố trí ở trang sau. Hoặc là một bản đồ có thể dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Do đó, xác định được thời điểm để khai thác đóng một vai trò rất quan trọng.
Bước 4: GV yêu cầu HS đọc bản đồ, lược đồ dùng phương pháp đàm thoại gởi mở để cùng HS khai thác kiến thức, để làm được điều đó GV phải xây dựng được hệ thống câu hỏi để hướng dẫn HS làm việc với bản đồ, lược đồ đồng thời cũng chuẩn bị các đáp án để chuẩn kiến thức, sửa các lỗi cho HS.
Để sử dụng hiệu quả bản đồ, lược đồ, giáo viên phải biết phối hợp khai thác các bản đồ treo tường hoặc tập bản đồ thế giới và các châu lục hoặc phóng to các hình trong SGK. Do đó, ngoài các bước trên, để đảm bảo tính sư phạm, khi hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng, giáo viên không nên dùng tay mà phải dùng que chỉ, tư thế chếch nghiêng, chỉ hệ thống sông từ thượng lưu xuống hạ lưu, xác định phạm vi một lãnh thổ nào đó thì phải khoanh tròn lại, xác định đỉnh núi chỉ có một điểm,..Trước khi trình bày bao giờ cũng phải giới thiệu tên bản bồ, lược đồ. Ngôn ngữ, cử chỉ của giáo viên là hết sức quan trọng. Trong quá trình khai thác cần chú ý đến đối tượng học sinh và thời gian giờ dạy.
Ví dụ cụ thể
Ví dụ 1: Bài 1: SỰ TƯƠNG PHẢN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA CÁC NHÓM NƯỚC. CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
Phần I: Sự phân chia thành các nhóm nước
(SGK- Ban cơ bản- Địa lí 11, trang 6 và 7)
Để giúp học sinh dễ dàng nắm được những trọng tâm kiến thức trong mục này, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 1
- Với nội dung câu hỏi như sau: Quan sát hình 1, nhận xét sự phân bố các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới theo mức GDP bình quân đầu người.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát phần chú giải phía dưới: GDP/ người chia làm 4 mức và dựa vào màu sắc để đối chiếu với bản đồ, từ đó tìm ra kiến thức.
- Học sinh quan sát và rút ra được:
+ Những nước có mức GDP/ người cao (trên 8955) phân bố chủ yếu ở Bắc Mĩ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản, Ôx-trây-lia, Liên bang Nga,
+ Những nước có mức GDP/ người thấp (dưới 725) phân bố chủ yếu ở châu Phi, châu Á, một số nước ở khu vực Mĩ la tinh.
Ví dụ 2: Bài 5: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA CHÂU LỤC VÀ KHU VỰC
Tiết 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA CHÂU PHI
Mục I – Một số vấn đề về tự nhiên
( SGK- Địa lí 11, Ban cơ bản, trang 19 và 20)
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 5.1
Hình 5.1. Các cảnh quan và khoáng sản chính ở châu Phi
Với nội dung các câu hỏi như sau
- Xác định vị trí Địa lí của châu Phi: tiếp giáp với những biển, đại dương nào, châu lục nào
- Xác định đường xích đạo, chí tuyến của châu Phi
- Từ những hình dạng về lãnh thổ, vị trí đường xích đạo chạy ngang cùng với hai đường chí tuyến. Giáo viên cho học sinh quan sát hình 5.2 và sử dụng máy chiếu cung cấp thêm một số hình ảnh khác về hoang mạc Xahara để học sinh biết được đặc điểm khí hậu, cảnh quan của châu Phi
Hình 5.2. Hoang mạc Xa-ha-ra
Qua ví dụ này ta thấy, nếu để học sinh quan sát hình 5.1 thì chưa đủ để rút ra đặc điểm khí hậu, cảnh quan châu Phi vì trên bản đồ không có chú giải về các đới, các kiểu khí hậu của châu Phi
Tiết 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA MĨ LA TINH
Mục I – Một số vấn đề về tự nhiên dân cư và xã hội
(SGK- Địa lí 11, Ban cơ bản, trang 24 và 25)
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 5.3 đọc bảng chú giải xác định cảnh quan chính và tài nguyên khoáng sản của Milatinh
Hình 5.3. Các cảnh quan và khoáng sản chính ở Mĩ-la-tinh
Tuy nhiên để học sinh thấy rõ các loại tài nguyên giáo viên cần nêu thêm các câu hỏi phụ như: Milatinh có đường bờ biển dài, giáp hai đại dương lớn nên có thuận lợi gì? Biển đã mang lại các nguồn lợi (tài nguyên) gì? Cảnh quan rừng, thảo nguyên có thuận lợi gì?
Tiết 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA KHU VỰC TÂY NAM Á VÀ KHU VỰC TRUNG Á
Mục I – Đặc điểm tự nhiên khu vực Tây Nam Á và khu vực Trung Á
(SGK- Địa lí 11, Ban cơ bản, trang 28, 29 và 30)
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 5.5 và hình 5.7 kết hợp bản đồ treo trường của các nước châu Á yêu cầu học sinh lên bảng xác định tên các quốc gia thuộc 2 khu vực này. Khi đó học sinh sẽ quan sát các nước trong hình 5.5 và 5.7 thông qua màu sắc để đối chiếu với bản đồ châu Á và lên bảng xác định được tên cũng như vị trí các quốc gia của 2 khu vực Tây Nam Á và khu vực Trung Á.
Hình 5.5. Khu vực Tây Nam Á Hình 5.7. Khu vực Trung Á
Bản đồ một số nước châu Á
Ví dụ 3: Khi dạy về Địa lí khu vực và quóc gia, hệ thống bản đồ có đặc điểm chung là bản đồ tự nhiên, bản đồ dân cư và bản đồ kinh tế được trình bày tuần tự gần như giống nhau ở các bài, do đó chúng ta phải rèn luyện cho học sinh trình tự đọc bản đồ này, cụ thể:
- Với bản đồ tự nhiên: Luôn trình bày ở phần đầu mỗi quốc gia (trừ Liên Minh Châu Âu và Ôx- trây-lia). Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác các bản đồ tự nhiên theo trình tự sau
+ Để xác định vị trí Địa lí của quốc gia, khu vực giáo viên cho học sinh trả lời các câu hỏi: Phạm vi tiếp giáp của các quốc gia, khu vực đó: phía Bắc, phía Nam, phía Tây, phía Đông giáp những nước, biển hay đại dương nào? Giáo viên gợi ý cho HS quan sát hệ thống các kinh vĩ tuyến để rút ra hệ tọa độ Địa lí của các quốc gia, khu vực cần tìm hiểu. Từ đó rút ra ý nghĩa của vị trí địa lí đối với phát triển nền kinh tế của quốc gia, khu vực đó.
+ Để tìm hiểu đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên GV hướng dẫn học sinh quan sát bảng chú giải xem có những loại tài nguyên nào, chú ý đến tài nguyên khoáng sản, rừng, đất, nước. Hầu hết các quốc gia trong chương trình Địa lí 11 đều là các quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nên thiên nhiên phân hóa đa dạng. Giáo viên phải xác định cho HS các ranh giới phân chia các vùng, miền của mỗi quốc gia. Ví dụ:
Hoa Kì (phần trung tâm Bắc Mĩ) chia thành 3 vùng là phía tây, vùng trung tâm và phía đông; ranh giới các vùng này là dãy Cooc- đie ở phía Tây và A-pa-lat ở phía đông.
Hình 6.1: Địa hình và khoáng sản của Hoa Kì
Liên bang Nga lãnh thổ rộng lớn địa hình chia thành 2 phần rõ rệt mà ranh giới là sông Ê-nit-xây
Hình 8.1: Địa hình và khoáng sản của Liên Bnag Nga
Trung Quốc cũng chia thành 2 miền đông và tây với ranh giới là kinh tuyến 1050Đ
Hình 10.1: Địa hình và khoáng sản của Trung Quốc
Để khai thác có hiệu quả kênh hình trong các nội dung trên giáo viên nên xây dựng các phiếu học tập (bảng kiến thức trồng) để học sinh so sánh giữa các vùng, miền về đặc điểm khí hậu, địa hình, các loại tài nguyên khoáng sản, đất,
Với bản đồ dân cư: chủ yếu trình bày về sự phân bố dân cư của mỗi nước. Khai thác hiệu quả các bản đồ này theo hướng như sau: cho HS quan sát các mức phân chia mật độ dân số của các quốc gia, khu vực đó. Sau đó yêu cầu HS xác định các vùng có mật độ dân số đông, mật độ dân số thưa, vì sao dân số lại phân bố như vậy? Giáo viên có thể giợi ý dựa vào điều kiện tự nhiên, lịch sử, điều kiện kinh tế- xã hội để giải thích, từ đó rút ra những thuận lợi và khó khăn đối với phát triển kinh tế.
Ví dụ: khi dạy đến nội dung phân bố dân cư trong tiết 1 “Tự nhiên, dân cư và xã hội Trung Quốc- mục III.1 Dân cư, thì GV hướng dẫn HS khai thác theo các bước sau
Hình 10.4. Phân bố dân cư Trung Quốc (trang 89- SGK Địa lí 11)
+ Giáo viên hỏi HS: Mật độ dân số (người/ km2) được chia thành mấy cấp? Đó là những cấp nào? Các đô thị lớn chia theo dân số (triệu người) gồm mấy loại?
+ Giáo viên yêu cầu HS quan sát phần nội dung chính của hình 10.4 hãy nhận xét và giải thích sự phân bố dân cư Trung quốc.
Với phần nhận xét HS dễ dàng nhận thấy dân cư Trung Quốc phân bố không đều chủ yếu tập trung ở phía Đông với mật độ dân số rất cao phổ biến từ 51- 100 người/ km2 và trên 100 người/ km2, còn ở phía Tây thì mật độ dưới 1 người/ km2;
Với 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_khai_thac_kenh_hinh_trong_sach_giao.doc