SKKN Một số phương pháp giáo dục giới tính cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường THPT DTNT Ngọc Lặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

SKKN Một số phương pháp giáo dục giới tính cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường THPT DTNT Ngọc Lặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp

Qua một thời gian dài công tác tại các huyện miền núi, và tiếp xúc với đa số học sinh dân tộc thiểu số tôi hiểu rằng mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa truyền thống riêng biệt về phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục và thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau Do các dân tộc sống xen kẽ đã tạo ra sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau cả về văn hóa và ngôn ngữ, từ đó tạo nên sự đa dạng về văn hóa vùng. Bên cạnh những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, từng cộng đồng, cũng tồn tại một số phong tục tập quán còn mang tính lạc hậu, trong đó có những tập quán về hôn nhân có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến tình trạng tảo hôn trong đồng bào dân tộc thiểu số mà đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp chính là học sinh. Đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hủ tục có thể kể đến như: Cướp vợ, hứa hôn, cưỡng ép hôn nhân mang tính chất gả bán, tục “nối dây”, tâm lý sớm có con đàn cháu đống, có người nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm người làm là những thực trạng cần phải khắc phục, ảnh hưởng đến tảo hôn. Kết hôn sớm làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội cải thiện đời sống và chăm sóc sức khỏe của người trẻ tuổi, bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ảnh hưởng tới tỉ lệ tử vong, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi của trẻ em, dẫn tới ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. Ở 11 huyện miền núi Thanh Hóa vẫn còn tình trạng kết hôn sớm dẫn tới tình trạng tảo hôn. Thực tế cho thấy, mặc dù đã được tuyên truyền pháp luật về hôn nhân và gia đình, bà con hiểu được những quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn, song do phong tục tập quán lạc hậu đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình “dựng vợ, gả chồng” cho con của họ từ rất sớm nên tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra. Vì chưa đủ tuổi theo luật định, nên việc đăng ký kết hôn không được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.

doc 16 trang thuychi01 6392
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp giáo dục giới tính cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường THPT DTNT Ngọc Lặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ NGỌC LẶC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ NGỌC LẶC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIAO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
Người thực hiện: Trương Thị Thu Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hoạt động GDNGLL
THANH HÓA NĂM 2018
Mục lục
1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lý do chọn đề tài
Qua một thời gian dài công tác tại các huyện miền núi, và tiếp xúc với đa số học sinh dân tộc thiểu số tôi hiểu rằng mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa truyền thống riêng biệt về phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục và thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau Do các dân tộc sống xen kẽ đã tạo ra sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau cả về văn hóa và ngôn ngữ, từ đó tạo nên sự đa dạng về văn hóa vùng. Bên cạnh những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, từng cộng đồng, cũng tồn tại một số phong tục tập quán còn mang tính lạc hậu, trong đó có những tập quán về hôn nhân có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến tình trạng tảo hôn trong đồng bào dân tộc thiểu số mà đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp chính là học sinh. Đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hủ tục có thể kể đến như: Cướp vợ, hứa hôn, cưỡng ép hôn nhân mang tính chất gả bán, tục “nối dây”, tâm lý sớm có con đàn cháu đống, có người nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm người làm là những thực trạng cần phải khắc phục, ảnh hưởng đến tảo hôn. Kết hôn sớm làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội cải thiện đời sống và chăm sóc sức khỏe của người trẻ tuổi, bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ảnh hưởng tới tỉ lệ tử vong, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi của trẻ em, dẫn tới ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. Ở 11 huyện miền núi Thanh Hóa vẫn còn tình trạng kết hôn sớm dẫn tới tình trạng tảo hôn. Thực tế cho thấy, mặc dù đã được tuyên truyền pháp luật về hôn nhân và gia đình, bà con hiểu được những quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn, song do phong tục tập quán lạc hậu đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình “dựng vợ, gả chồng” cho con của họ từ rất sớm nên tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra. Vì chưa đủ tuổi theo luật định, nên việc đăng ký kết hôn không được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó là một cặp vợ chồng.
Chính vì hiện trạng thực tế nêu trên, tôi nhận thấy giáo dục giới tính cho học sinh trường THPT DTNT Ngọc Lặc là một việc làm cần thiết. Song do tâm lí nên một điều nổi lên rõ rệt đó là các em cảm thấy ngượng ngùng, mắc cỡ khi đề cập tới vấn đề này, xấu hổ không dám xem các hình vẽ hoặc khi nghe giáo viên giảng trong các tiết học ngoài giờ lên lớp, các em đã không dám nhìn về phía giáo viên. Bên cạnh đó các em chưa thể mạnh dạn để ngồi vào thảo luận sôi nổi một vấn đề nào đó hoặc nếu có cố gắng trao đổi thì cũng chỉ là qua loa lấy lệ vì trong nhóm có cả nam lẫn nữ. Một vấn đề nữa khiến tôi rất lo ngại đó là ở tuổi này một số em đã bắt đầu xuất hiện những tình cảm vượt xa so với tình bạn mà các em cho rằng đó là tình yêu. Tình cảm nam nữ đã ảnh hưởng khá nhiều đến việc học tập của các em, mà cụ thể là các em đã chểnh mảng, lơ là trong việc học, không chú ý bài trong từng tiết học Thậm chí còn nguy hiểm hơn là các em đã bắt đầu hẹn hò theo kiểu người lớn thì những hậu quả xảy ra là rất khó lường cho bản thân các em, gia đình và xã hội. Đặc biệt là học sinh người dân tộc thiểu số, sống và học tập trong môi trường nội trú thì giáo dục giới tính trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Với thực tế đó, tôi nhận thấy việc giáo dục giới tính có vai trò quan trọng trong việc hình thành cho các em ý thức đúng đắn về những điều xung quanh tuổi dậy thì, từ đó các em sẽ làm chủ được hành vi. Với những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số phương pháp giáo dục giới tính cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường THPT DTNT Ngọc Lặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 
- Giúp học sinh nhận thức đúng về giới tính của bản thân, đồng thời có hiểu biết rõ ràng về các vấn đề xoay quang giới tính như: hôn nhân, gia đình, tệ nạn xã hội, hủ tục. 
1.3. Đối tượng và điều kiện nghiên cứu đề tài:
	Đối tượng: Học sinh khối 10 trường THPT DTNT Ngọc Lặc.
	Điều kiện nghiên cứu: 
	a.Thuận lợi: 
- Ở lứa tuổi này các em có ý thức học tập tốt hơn và tinh thần tự giác cao. 
- Các em học tập và sinh hoạt hàng ngày tại trường. 
- Các em thường có những tìm tòi về sự biến đổi của cơ thể mình, vì vậy các em thích tìm hiểu các vấn đề về giới tính.
b. Khó khăn: 
- Học sinh là người dân tộc thiểu số và đang ở tuổi dậy thì nên đa phần các em rất ngại ngùng khi phải nói ra hay trao đổi một vấn đề nào đó về giới tính. 
- Một số em do cơ thể chậm phát triển so với bạn bè cùng lứa nên trong quá trình học tập, trao đổi, thảo luận các em có phần mặc cảm, tự ti. 
- Do biến đổi về tâm sinh lý, các em chưa thể hiểu và giải thích được vấn đề .
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp sau:
- Nghiên cứu các loại tài liệu sư phạm có liên quan đến đề tài
- Phương pháp quan sát (công việc dạy, học của giáo viên và HS)
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp vấn đáp 
- Phương pháp thuyết trình 
- Phương pháp tình huống 
- Phương pháp giải quyết vấn đề 
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
Trong những thập kỷ vừa qua, thế giới (kể cả Việt Nam) đã có những thay đổi đáng kể. Những thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đến thanh thiếu niên. Lớp trẻ ngày nay phải được chuẩn bị cho một tương lai với những thách thức lớn hơn. Nhận thức về tình bạn, tình yêu, hôn nhân và sinh sản đang dần thay đổi. Điều này đòi hỏi lớp trẻ phải có hiểu biết và được chuẩn bị kỹ càng trước khi đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến tương lai của mình.
Học sinh lớp 10 đang ở độ tuổi từ 15-16, đây là lứa tuổi mà trong cơ thể các em diễn ra sự dậy thì rất mạnh mẽ cả ở nam lẫn nữ, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn – người ta gọi là tuổi vị thành niên. Có rất nhiều sự đổi khác về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng của các em. Các em cảm thấy rất bỡ ngỡ trước những thay đổi kỳ lạ của cơ thể mình, thậm chí có em còn hoang mang lo sợ không biết phải đối mặt như thế nào. Vì vậy các em cần được chia sẻ thổ lộ với người lớn, nhất là thầy cô giáo và cha mẹ mình. Hơn thế nữa, ở tuổi này các em thường hay tò mò, thích thử những cảm giác lạ, nếu không được giáo dục đúng cách về giới tính thì những hậu quả khôn lường sẽ xảy đến với các em như yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, mang thai sớm hoặc mắc các bệnh lây qua đường tình dục v.v.. Dậy thì là giai đoạn phát triển quá độ về sinh lý từ thời kỳ nhi đồng sang thời kỳ thanh niên. Ở trẻ dưới 8 tuổi, mặc dù cơ quan sinh dục trong và ngoài của nam và nữ đã có sự phân biệt, chiều cao và thể trọng của cơ thể tăng rất nhanh nhưng không có sự khác biệt nhiều về giới tính. Và trung bình đến khoảng 11, 12 tuổi, đặc trưng giới tính của các em bắt đầu biểu hiện, chẳng hạn ở em trai thì lớn nhanh cao vượt, vỡ tiếng, giọng ồm, còn ở em gái thì bắt đầu hành kinh, mông đùi phát triển
Cùng với sự phát triển ấy, tâm lý các em cũng có sự phát triển thêm một bước. Các em bắt đầu tự cho mình là người lớn, đòi độc lập, đòi sự tôn trọng của người lớn, đòi được đối xử bình đẳng, được tự do kết bạn, được tự mình suy xét vấn đề và có một khoảng trời riêng của mình. Các em muốn được kết bạn và nảy sinh tình cảm ái mộ đối với người khác giới, thậm chí dần dần nảy sinh tình yêu và những đòi hỏi về tình dục. Tuy nhiên tâm lý của các em vẫn chưa thực sự chín chắn, tính cách, tư tưởng chưa được định hình, dễ bị ảnh hưởng bởi các trào lưu xã hội, bạn bè xung quanh hoặc phim ảnh đồi trụy. Do vậy, cần phải triển khai giáo dục tri thức, đạo đức về giới tính, giúp các em đặt nền móng tốt đẹp cho cuộc sống và sự nghiệp sau này. 
Giáo dục giới tính không nên chỉ tập trung vào việc truyền đạt kiến thức mà còn phải gây được ảnh hưởng tới hành vi hiện tại cũng như sau này của lớp trẻ. Loại hình giáo dục này cần chú trọng vào việc phát triển kỹ năng sống cho các em như kỹ năng xác định điều đúng sai, kỹ năng ra quyết định v.v..Khi những kỹ năng này được phát triển thì sự tự tin và tự trọng của các em cũng sẽ tăng lên, đây là những yếu tố quan trọng quyết định hành vi của các em. 
Để đạt được mục tiêu trên, một yêu cầu lớn đặt ra là phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học trong quá trình giáo dục giới tính. Đề tài này tôi đưa ra một số phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục cho các em. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 	Trường THPT DTNT Ngọc Lặc là trường học chuyên biệt, 95% là học sinh người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Tổng số học sinh của nhà trường gồm 180 em, trong đó có 133 em học sinh nữ. Sự hiểu biết về giới tính của các em còn hạn chế. Được thể hiện qua bài kiểm tra đánh giá trước hoạt động ngoài giờ lên lớp 
Thời gian
Kết quả trả lời phiếu hỏi
Hiểu rõ
Hiểu
Chưa hiểu
Trước HĐNGLL
5,56%
16,67%
77,77%
Sau đây tôi xin đơn cử một số nội dung giáo dục giới tính với việc áp dụng một vài phương pháp cụ thể tại trường THPT DTNT Ngọc Lặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp như sau:
2.3. Các giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề 
2.3.1. Những vấn đề về sự biến đổi tâm sinh lý
Đầu tiên sẽ là những bài học giúp các em nhận biết rằng mình đã thực sự bước vào giai đoạn đáng nhớ nhất của cuộc đời. 
Tôi đã sử dụng phiếu học tập sau để phát cho các em hoàn thành theo cá nhân: 
Phiếu học tập số 1
Tuổi: .........
Nam: ..	Nữ:
Hãy đánh dấu (x) vào những thay đổi liệt kê dưới đây mà em thấy xuất hiện trên cơ thể mình và gạch dưới những dấu hiệu mà em biết đó là những thay đổi đặc trưng nhất ở cả hai giới. 
ƒ
 Lớn nhanh
 Da trở nên mịn màng
 Thay đổi giọng nói
 Vú phát triển
 Mọc lông mu
 Mọc lông nách
 Hông nở rộng 
 Mông, đùi phát triển
 Bộ phận sinh dục phát triển
 Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển
 Xuất hiện mụn trứng cá
 Bắt đầu hành kinh
‚
 Lớn nhanh, cao vượt
 Sụn giáp phát triển, lộ hầu
 Vỡ tiếng, giọng ồm
 Mọc ria mép 
 Mọc lông nách 
 Mọc lông mu 
 Cơ bắp phát triển
 Cơ quan sinh dục to ra
 Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển
 Xuất hiện mụn trứng cá
 Xuất tinh lần đầu 
Vai rộng, ngực nở
Có rất nhiều em trai và em gái đã rất hốt hoảng và lúng túng không biết phải xử lý thế nào khi các em thấy xuất tinh lần đầu hoặc bắt đầu hành kinh. GV phải nắm bắt được điều này và có thể tổ chức trò chuyện ân cần với các em vào tiết học ngoài giờ lên lớp . Đối với HS nam, GV phải giải thích cho các em rằng: Xuất tinh là tinh dịch từ trong hệ sinh dục của bạn phóng ra ngoài. Bạn trai lớn lên đến một lúc nào đó bắt đầu có khả năng này, hoặc có nhiều bạn trai xuất tinh trong lúc ngủ gọi là mộng tinh, đây là hiện tượng sinh lý rất bình thường và các em đừng nên lo lắng. GV cần lưu ý với HS nam việc vệ sinh cơ quan sinh dục là điều đặc biệt chú ý và mặc đồ lót cũng phải cho phù hợp. Còn đối với HS nữ nên giải thích cho các em rằng bắt đầu hành kinh là dấu hiệu hệ sinh dục bắt đầu hoạt động, các em không nên e ngại vì đây là dấu hiệu rằng các em đang dần trưởng thành. GV cần chỉ tỉ mỉ cho các em nữ cách vệ sinh trong thời gian này. Đồng thời GV cũng cần giải đáp cho các em một số thắc mắc mà các em ngại nói ra như: Các chu kỳ kinh cách nhau không đều như vậy có bình thường không? Nếu mất kinh một tháng thì nghĩa là sao? Tại sao lại bị đau bụng trong khi hành kinh? Nam giới có bị hành kinh không?...
Cùng với việc tìm hiểu sự biến đổi về sinh lý thì tôi thấy cần cho các em tự bộc bạch những sự thay đổi về đặc điểm tâm lý của mình thông qua phiếu học tập sau: 
Phiếu học tập số 2
Tuổi: .........
Nam: ..	Nữ:
Hãy đánh dấu (a) vào những đặc điểm tâm lý mà em thấy có ở bản thân mình: 
 	Tò mò, ham tìm hiểu cái mới.
 	Thích tự giải quyết vấn đề. 
	Muốn được đối xử như người lớn. 
	Quan tâm tới bạn khác giới.
	Dành nhiều thời gian cho bạn bè hơn cho gia đình.
	Có cảm xúc mạnh mẽ. 
	Hay ghi nhật ký.
	Hay ngượng ngùng. 
	Thích tâm sự với bạn bè cùng lứa. 
	Bắt đầu quan tâm đến bản thân nhiều hơn.
	Thích trang điểm, ngắm vuốt.
	Cảm thấy như chẳng ai hiểu mình.
	Dễ cảm thấy bị xúc phạm. 
	Hay bồn chồn, lo lắng, bối rối về những thay đổi của bản thân. 
	Thích ngồi một mình suy nghĩ vẩn vơ. 
Em hãy ghi thêm nếu thấy còn thiếu: 
Qua việc sử dụng phiếu học tập số 2 với cách thức làm giống phiếu số 1, các em sẽ nhận thức được rằng mình đã có những đặc điểm tâm lý điển hình của tuổi dậy thì để từ đó có lối suy nghĩ, có cái nhìn đúng đắn, chững chạc trong mọi hành động, việc làm của mình. Đồng thời quan trọng hơn cả là GV có thể nắm bắt rõ sự thay đổi của các em để tìm ra phương thức giáo dục có hiệu quả nhất cho lứa tuổi này. 
	2.3.2. Tình bạn, tình yêu tuổi vị thành niên
Một vấn đề tiếp theo rất đáng để chúng ta quan tâm đó là tình bạn, tình yêu tuổi vị thành niên. Ở tuổi này các em thường trải qua sự thay đổi cảm xúc đầu tiên về tình bạn giữa những người cùng giới hoặc khác giới. Đây có thể là giai đoạn rất khó khăn nhưng đó là một biểu hiện của người đã lớn lên. Tuy vậy, có những lúc tình bạn giữa hai HS, thường là hai HS khác giới có thể vượt quá giới hạn của tình bạn để không còn “chỉ là tình bạn nữa”. Tình bạn đó chuyển thành thứ tình cảm có xúc cảm mãnh liệt và có sự hấp dẫn về giới tính thành quan hệ lãng mạn và có thể thành tình yêu. Con trai và con gái bỗng thấy tự ý thức về mình và thấy thẹn thùng trước mặt bạn khác giới. Trong trường hợp đó các em không biết nên ứng xử như thế nào, nói gì  và thế là nhìn người bạn của mình bằng ánh mắt khác ngày trước. Đó là những biểu hiện tình cảm thường xuyên xảy ra ở các em, về mặt tích cực nó có thể làm cho các em cảm thấy mình cần quan tâm, thương yêu giúp đỡ bạn bè nhiều hơn, nỗ lực học tập hơn để khỏi xấu hổ với bạn bè hoặc đối tượng của mình. Còn về mặt khác đáng lo ngại là nếu các em để những chuyện về tình bạn, tình yêu chi phối cuộc sống và việc học tập của mình quá nhiều thì sẽ gây trở ngại cho bước tiến của các em. 
Để các em hiểu đúng bản chất “tình bạn” trong học đường và có nên chăng nếu xuất hiện tình cảm vượt quá tình bạn trong sáng, ngoài việc dùng lời dẫn giải hoặc vấn đáp trực tiếp với HS, tôi đã vận dụng cách làm sau vừa giúp các em hứng thú, sôi nổi khi giải quyết vấn đề vừa mang lại hiệu quả giáo dục cao: 
Bài tập: Các nhóm hãy kẻ ra giấy bảng dưới đây và làm theo các bước.
Bước 1: Hãy tìm 2-3 câu ca dao về tình bạn, 2-3 câu ca dao về tình yêu rồi viết vào cột thứ nhất của bảng.
Bước 2: Xác định nội dung trong mỗi câu và điền vào cột thứ hai của bảng.
Bước 3: Hãy đưa ra ý nghĩa giáo dục và tầm quan trọng của mỗi câu ca dao rồi điền vào cột thứ ba của bảng.
Các câu ca dao
Nội dung chính
Ý nghĩa giáo dục
Về tình bạn 
1. 
2. 
3. 
Về tình yêu
1. 
2. 
3. 
1. .
2. .
3. .
1. .
2. .
3. .
1. .
2. .
3. .
1. .
2. .
3. .
Sau khi HS làm xong bài tập trên, GV yêu cầu một số HS phát biểu quan điểm của mình về tình bạn, tình yêu trong học đường thông qua những câu ca dao đó, cho đại diện các nhóm trình bày, so sánh giữa các nhóm, lưa ý sự đối lập về quan điểm để thảo luận cho sôi nổi. GV nên chỉ cho các em thấy được rằng ở tuổi của các em chỉ nên hướng đến một tình bạn trong sáng lành mạnh, còn tình yêu đôi lứa thật sự không nên để xảy ra trong giai đoạn này, nó chỉ phù hợp khi các em đã đủ trưởng thành trong suy nghĩ, trưởng thành trong mọi hành động, việc làm của mình, các em phải biết tự giới hạn mình trước những điều nên hoặc không nên. 
	2.3.3. Tình dục tuổi vị thành niên 
Một thực tế nữa mà chúng ta không thể phủ nhận, đó là việc các em chưa ý thức rõ ràng về tình dục ở tuổi vị thành niên. Đặc biệt là học sinh người dân tộc thiểu số thì vấn đề tình dục tuổi vị thành niên càng trở nên đáng lo ngại bởi những suy nghĩ lạc hậu và nạn tảo hôn. Trong môi trường nội trú các em cần phải hiểu rằng tình dục là một mặt của nhân cách, biểu hiện tất cả những cảm xúc và hành vi giới tính của một người. Tình dục có thể là những hoạt động sinh lý, quan hệ tình dục có thể mang lại rủi ro vì sẽ dẫn tới những hậu quả không mong muốn như có thai sớm hoặc ngoài ý muốn, mắc bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục kể cả HIV/AIDS, quyết định có quan hệ tình dục là một quyết định hệ trọng và điều quan trọng là phải hiểu được hậu quả của hành động này. Chính vì thế mà hình thức giáo dục vấn đề này bắt đầu càng sớm càng tốt để các em có sự hiểu biết đúng đắn, có thái độ và hành vi đúng. 
Tuy nhiên vẫn có một số ý kiến cho rằng khi nói đến vấn đề tình dục tức là đã phần nào thôi thúc sự tò mò của các em hơn, Việt Nam có câu “ Vẽ đường cho hươu chạy”. Cho nên trước khi cho các em tìm hiểu vấn đề tôi đã đề nghị cả lớp thảo luận theo nhóm về câu hỏi: “Có nên giáo dục vị thành niên về tình dục không” . Tôi không nên áp đặt quan điểm của mình cho HS mà để các em tự do bày tỏ quan điểm cá nhân, hoặc là đồng ý hoặc là phản đối. Rồi sau đó khéo léo thuyết phục HS về lợi ích của việc giáo dục tình dục, giải thích cho HS rằng thông tin về quá trình sinh sản rất quan trọng đối với tất cả mọi người và tôi không hề có ý định khuyến khích các em bắt đầu tình dục. Điều quan trọng là giúp cho các em biết để chuẩn bị cho tương lai đồng thời nhận thức về những nguy cơ và hậu quả liên quan. 
Để dạy chủ đề rất tế nhị và nhạy cảm này tôi đã chuẩn bị Hộp thư thắc mắc đặt ở một chỗ thích hợp trong lớp học để HS có thể bỏ hỏi những vấn đề tế nhị khi muốn. Yêu cầu mỗi HS viết vào một tờ giấy bất cứ câu hỏi gì về tình dục và không cần phải đề tên, khích lệ tất cả HS tham gia vào hoạt động này. Sau khi học sinh đã bỏ phiếu vào hộp thư, GV phân loại các câu hỏi và tìm ra một số câu chung nhất, sau đó tổ chức nói chuyện, thảo luận hay tổ chức các trò chơi tùy vào số lượng và nội dung câu hỏi.
Như vậy với cách làm này HS sẽ cảm thấy rất thoải mái, tự tin để thổ lộ hết những thắc mắc của mình mà không thấy ái ngại, bởi các em rất khó nói ra trước đám đông. Và khi cho các em thảo luận trong nhóm hoặc tổ chức trò chơi sẽ giúp các em mạnh dạn hơn và sẽ làm chủ tốt hơn trong cách lý luận của mình về vấn đề đặt ra. 
	2.3.4. Vấn đề mang thai sớm
“Điều gì sẽ xảy ra khi quan hệ tình dục sớm”? Quan hệ tình dục sớm trong giới trẻ ở cả nam lẫn nữ đều là điều đáng lo ngại. Nhiều khi điều này xảy ra ngay từ tuổi 13 – 14. Lúc đầu có thể do tác động của những kích thích cộng với sự tò mò “muốn làm người lớn”, các em đã tiến hành “thử” khi có điều kiện. Và do tuổi còn nhỏ, chưa có kinh nghiệm sống, chưa hoàn toàn trưởng thành về thể chất và xương chậu có thể chưa đủ rộng để đầu trẻ sơ sinh thoát ra. Trong những tình huống như vậy, đẻ khó và chuyển dạ kéo dài sẽ là điều khó tránh khỏi, có thể gây rách dạ con và chết cả mẹ lẫn con. Nếu có sinh ra được thì con của các bà mẹ “trẻ con” cũng phải đối mặt với những rủi ro về sức khỏe. 
Mang thai sớm còn là điều kinh hoàng cho các em gái khi các em chọn cách loại bỏ cái thai không mong muốn bằng việc nạo thai. Nếu nạo thai không an toàn là rủi ro sức khỏe rất lớn cho phụ nữ trẻ, nạo thai có thể để lại những biến chứng nghiêm trọng và có thể dẫn đến vô sinh, thậm chí là cái chết. Bên cạnh, các em gái còn phải đối mặt với sự phản đối của cộng đồng hoặc nếu vẫn đang đến trường thì bị buộc phải thôi học. 
Để các em hiểu rõ tác hại của quan hệ tình dục sớm dẫn đến mang thai sớm như đã nêu ở trên, tôi đã tổ chức hướng dẫn cho các em một “ sân khấu hóa” như sau: 
Chia thành hai nhóm đối nghịch: Một nhóm đóng vai những người “ủng hộ” vị thành niên sớm có quan hệ tình dục, một nhóm đóng vai người “phản đối”. Mỗi nhóm bầu chọn một “phát ngôn viên” chính, nhưng mọi thành viên trong nhóm đều phải tham gia vào cuộc tranh luận này. 
- Phát ngôn viên của nhóm ủng hộ nói trước, đưa ra những lý lẽ giải thích tại sao các hoạt động tình dục ở tuổi vị thành niên là điều “bình thường”, “được phép”. Nhóm ủng hộ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_giao_duc_gioi_tinh_cho_hoc_sinh_dan.doc