SKKN Thiết kế và sử dụng một số thí nghiệm biểu diễn trong dạy học phần sinh học tế bào nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh

SKKN Thiết kế và sử dụng một số thí nghiệm biểu diễn trong dạy học phần sinh học tế bào nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh

Trong lí luận dạy học, sự thống nhất giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học đạt hiệu quả cao. Phương tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp học sinh tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy, khả năng tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức. Đối với học sinh, thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh; thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn do đó nó là phương tiện duy nhất giúp học sinh thực hành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Thí nghiệm giúp học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất của các hiện tượng và quá trình sinh học. Thí nghiệm do giáo viên biểu diễn phải là mẫu mực về thao tác, việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên các thí nghiệm phải theo hướng tích cực, sáng tạo. Trong chương trình SGK Sinh học THPT do Bộ Giáo dục & Đào tạo vững chắc có khả năng áp dụng rộng rãi, tránh cho học sinh có những hiểu biết mơ hồ, những lí thuyết xuông không thực tế. Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh.

doc 22 trang thuychi01 4600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Thiết kế và sử dụng một số thí nghiệm biểu diễn trong dạy học phần sinh học tế bào nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong lí luận dạy học, sự thống nhất giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học đạt hiệu quả cao. Phương tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp học sinh tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy, khả năng tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức. Đối với học sinh, thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh; thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn do đó nó là phương tiện duy nhất giúp học sinh thực hành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Thí nghiệm giúp học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất của các hiện tượng và quá trình sinh học. Thí nghiệm do giáo viên biểu diễn phải là mẫu mực về thao tác, việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên các thí nghiệm phải theo hướng tích cực, sáng tạo. Trong chương trình SGK Sinh học THPT do Bộ Giáo dục & Đào tạo vững chắc có khả năng áp dụng rộng rãi, tránh cho học sinh có những hiểu biết mơ hồ, những lí thuyết xuông không thực tế. Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. 
Qua thí nghiệm còn rèn luyện cho học sinh phương pháp học tập và tư duy khoa học giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn về thế giới quan. Đối với một trường THPT miền núi như trường THPT Thường Xuân 2 với hầu hết học sinh là con em dân tộc thiểu số có chất lượng đầu vào thấp, kiến thức ở các lớp dưới còn khiếm khuyết, trình độ tiếp thu hạn chế. Nên việc truyền thụ kiến thức sinh học cho học sinh là một điều hết sức khó khăn. Vì vậy thí nghiệm biểu diễn cần phải được sử dụng thường xuyên, hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo viên cần bám sát mục tiêu của bài học để áp dụng các thí nghiệm biểu diễn vào từng hoạt động, từng bài học cụ thể phù hợp, đảm bảo thời gian hợp lí. Do đó, nhằm khai thác hết giá trị dạy học của dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, gắn lí thuyết với thực tiễn, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của các sự vật, hiện tượng sinh học tế bào thì giáo viên cần thường xuyên sử dụng và sử dụng có hiệu quả các thí nghiệm trong quá trình dạy học sinh học. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng các thí nghiệm biểu diễn là cần thiết và sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học. 
Xuất phát từ việc nhận thức vai trò quan trọng của thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học. Tuy nhiên những thí nghiệm mà SGK hoặc SGV hướng dẫn với điều kiện của trường, những thí nghiệm đó không thực hiện được, khó làm, tốn nhiều thời gian chưa phù hợp với một tiết học, không mang lại hiệu quả cao đối với khả năng nhận thức của các em. Thiết kế các thí nghiệm bằng các vận dụng có sẵn như vỏ bưởi, khoai lang, khoai tây, mực viết .. Vật liệu gần gũi, thời gian cho kết quả ngắn, học sinh dễ tiếp thu hơn, nhớ lâu. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thiết kế và sử dụng một số thí nghiệm biểu diễn trong dạy học phần sinh học tế bào nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh”
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Thiết kế các thí nghiệm biểu diễn phù hợp với từng nội dung của phần sinh học tế bào 
- Nghiên cứu phương pháp sử dụng các thí nghiệm biểu diễn đã thiết kế nhằm phát triển các năng lực cho học sinh 
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Thí nghiệm biểu diễn 
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quy nạp, diễn dịch so sánh
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
1.5. Điểm mới của đề tài:	
Thiết kế một số thí nghiệm biểu diễn của phần sinh học tế bào ở lớp 10 THPT: Nguyên liệu dễ tìm, hóa chất phổ biến, đơn giản, dễ làm, biểu diễn kết quả trong thời gian ngắn phù hợp với thời gian của 1 tiết học (45 phút). Phản ánh nội dung của bài dạy chính xác, khoa học
Phát triển từ sáng kiến kinh nghiệm của bản thân năm 2015 áp dụng cho chương 2 phần sinh học tế bào. Sau 3 năm thực nghiệm, bản thân thấy hữu ích cho quá trình giảng dạy nên tôi đã mạnh dạn mở rộng đề tài cho cả phần sinh học tế bào – sinh học 10
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận của sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học:
2.1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài:
a) Thí nghiệm:
Thí nghiệm được xem là một trong những phương tiện trực quan quan trọng hàng đầu trong dạy học nói chung và dạy học SH nói riêng. TN giúp HS trực tiếp quan sát các hiện tượng, quá trình, tính chất của các đối tượng nghiên cứu.
Thí nghiệm được hiểu là gây ra một hiện tượng, một sự biến đổi nào đó trong điều kiện nhất định để tìm hiểu, nghiê n cứu, kiểm tra hay chứng minh. Thí nghiệm có thể được tiến hành trên lớp, trong phòng TN, vườn trường, ngoài ruộng và ở nhà. TN có thể do GV biểu diễn hoặc do HS thực hiện. 
Hiện nay, trong thực tế dạy học thí nghiệm thường mới được sử dụng để giải thích, minh họa, củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết. Song GV có thể căn cứ v ào nội dung bài học và điều kiện cụ thể mà có thể sử dụng các TN nhằm mục đích giúp HS lĩnh hội tri thức mới , rèn luyện cho các em phẩm chất của một nhà nghiên cứu khoa học và làm cho HS thêm yêu môn học. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ, đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu các thí nghiệm biểu diễn phần SH tế bào trong chương trình thông qua SGK Sinh học 10. 
b) Thí nghiệm biểu diễn và vai trò của thí nghiệm biểu diễn trong dạy học
Trước hết ta hiểu thí nghiệm “biểu diễn” là GV làm thực hành trực tiếp trên lớp trong các tiết dạy lí thuyết và thực hành.
“Thí nghiệm biểu diễn” được hiểu là tiến hành các TN trong các bài lý thuyết, thực hành, được GV thực hiện để hiểu rõ được mục đích TN, điều kiện TN. Qua tiến hành và quan sát TN tại phòng học, HS xác định được bản chất của hiện tượng, quá trình.
Trong dạy học nói chung và dạy học SH nói riêng, TN biểu diễn luôn đóng vai trò quan trọng, giúp cho HS có điều kiện tự mình tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng, giữa bản chất và hiện tượng, giữa nguyên nhân và kết quả. Do đó, HS nắm vững tri thức, phát huy tiềm năng tư duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động trong hoạt động học.
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học SH nói riêng, TN đóng vai trò hết sức quan trọng :
TN là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của HS. TN là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Vì vậy nó là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở HS kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật [4,Tr 22].
Trong khoảng thời gian 45 phút của một tiết học, GV rất khó có thể giải thích hết cho HS những vấn đề phức tạp mang tính bản chất, cơ chế của các sự vật hiện tượng. Với tư cách là phương tiện giúp HS “khám phá” kiến thức, các TN biểu diễn sẽ giúp HS hiểu rõ được bản chất của các vấn đề SH. Quan sát diễn biến và kết quả TN giúp cho HS có cơ sở thực tiễn để giải thích bản chất của các hiện tượng đó trong thời gian ngắn nhất.
TN có thể được sử dụng ở mức độ thông báo, tái hiện và ở mức độ cao hơn là tìm tòi bộ phận, nghiên cứu. Ngoài ra, TN còn giúp HS thêm yêu môn học có được đức tính cần thiết của người lao động như: cần cù, kiên trì, ý thức tổ chức kỉ luật cao
2.2.2 Cở sở khoa học của việc sử dụng TN qua quá trình dạy học:
a) Cơ sở lí luận dạy học:
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết với nhau như: mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. Có thể biểu diễn mối quan hệ của các thành tố trong quá trình dạy học theo sơ đồ sau:
 MT
Trong đó:
MT: Mục tiêu.
ND: Nội dung.
PP: Phương pháp.
PT: phương tiện.
ĐG: Đánh giá.
ND
 PP
 PT
 TC
 ĐG
Mối quan hệ các thành tố trong quá trình dạy học.
Từ mối quan hệ trên ta thấy TN thực hành là một trong những phương tiện trực quan quan trọng trong quá trình dạy học, nó là nguồn cung cấp kiến thức, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là phương tiện để phát huy tiềm năng tư duy, tính tích cực của HS. Tuy nhiên, không phải lúc nào và GV nào cũng có thể sử dụng TN thực hành đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học. Việc khai thác các TN thực hành đòi hỏi người GV cần phải có kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp phù hợp. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng TN thực hành trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học SH nói riêng là hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng.
c) Cơ sở tâm lí học:
Lứa tuổi HS THPT thường dao động trong khoảng 14 đến 18 tuổi, là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên. Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT là: tính chủ động, tính tích cực và tự giác cao, được thể hiện ở tất cả các quá trình nhận thức. Tuy nhiên, một số em còn quan sát kém, phiến diện dẫn đến nhiều khi kết luận thiếu cơ sở thực tiễn, tiếp nhận kiết thức thụ động, mơ hồ và không nắm rõ bản chất Vì vậy: để HS lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và đầy đủ thì GV cần lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học hợp lí. Do có sự hình thành và phát triển mạnh mẽ về thế giới quan, tự ý thức mà học sinh THPT có niềm tin vào chính bản thân mình, các em hiểu rằng cuộc sống tương lai của mình gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp.
2.2.3 Vai trò của việc sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong quá trình dạy học định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Thí nhiệm là một phương tiện dạy học, mà phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tăng cường tính trực quan. Việc sử dụng thí nghiệm biểu diện trong khâu nghiên cứu bài mới được dùng trong phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, dạy học khám phá, từ đó hình thành cho cho học sinh các năng lực chung ( 8 năng lực) và năng lực chuyên biệt của môn sinh học ( 4 năng lực ) [11.Tr46,47,48]. Quan sát, nghiên cứu thí nghiệm biểu diễn định hướng cho học sinh hình thành các năng lực chung như tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề và các năng lực riêng như: tri thức về sinh học, năng lực nghiên cứu và năng lực thực hiện trong phòng thí nghiệm. Vì vậy mà hiện nay việc trang bị cho các trường THPT từng bước được tăng cường. Đặc biệt các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi là một minh chứng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1 Thực trạng của việc sử dụng TN trong dạy học SH ở trường THPT
a) Thực trạng việc nhận thức của GV về việc sử dụng TN trong quá trình dạy học.
Để xác lập cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TN biểu diễn trong dạy học SH ở trường THPT, Tôi đã tiến hành điều tra về nhận thức, mức độ sử dụng, hiệu quả sử dụng cũng như việc cải tiến, thiết kế các TN của GV 02 trường THPT trên địa bàn huyện Thường Xuân: trường THPT Cầm Bá Thước và THPT Thường Xuân 2 (Nội dung điều tra theo mẫu phiếu điều tra thực trạng, phụ lục 1). Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của GV về việc sử dụng TN trong quá trình dạy học SH ở trường THPT thể hiện qua bảng 1.1
Bảng 1.1. Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của GV về việc sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học ở trường THPT
Mức độ nhận thức
Số phiếu
Tỉ lệ %
- Rất cần thiết.
 - Cần thiết.
- Không cần thiết.
34
12
0
73.9
 26.1
 0
Kết quả thu được cho thấy: Hiện nay, giáo viên THPT đều đánh giá cao tầm quan trọng và sự cần thiết của việc sử dụng TN trong quá trình dạy học. 100% GV được khảo sát đều khẳng định không thể thiếu TN trong quá trình dạy học SH. Theo đánh giá của giáo viên THPT, việc sử dụng các TN trong dạy học SH đảm bảo cho HS nắm kiến thức vững chắc, tạo được hứng thú cho HS, phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS trong quá trình học tập.
Từ sự phân tích trên cho thấy giáo viên THPT đã có sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của TN trong quá trình dạy học SH. Điều đó có thể cho phép khẳng định mức độ cần thiết và ý nghĩa của TN trong dạy học ở trường THPT hiện nay.
b) Mức độ sử dụng thí nghiệm biểu diễn của giáo viên ở các trường THPT trong quá trình dạy học sinh học hiện nay.
Để đánh giá mức độ sử dụng thí nghiệm biểu diễn của giáo viên ở các trường THPT hiện nay tôi dựa trên cơ sở đánh giá của GV và kết quả điều tra được trình bày trong bảng 1.2 như sau:
Bảng 1.2. Kết quả khảo sát mức độ sử dụng thí nghiệm trong dạy học Sinh học ở trường THPT.
Mức độ sử dụng
Số phiếu
Tỉ lệ (%)
- Thường xuyên.
- Thỉnh thoảng
 - không sử dụng
- Không sử dụng
12
33
1
1
26.1
71.8
2.1
2.1
Từ kết quả thu được ở bảng 1.2 chúng tôi có thể đi đến một số nhận định sau: Trong các trường THPT hiện nay, GV đã sử dụng TN trong quá trình dạy học nhưng mức độ sử dụng là không thường xuyên (71.8% GV thỉnh thoảng có sử dụng và 2.1% GV không bao giờ sử dụng).
Kết quả này phản ánh thực trạng là mặc dù giáo viên đã nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của TN trong quá trình dạy học SH, nhưng việc sử dụng TN trong thực tế lại rất hạn chế. Điều này tạo nên mâu thuẫn giữa nhận thức và mức độ sử dụng TN của GV trong quá trình dạy học ở trường THPT hiện nay.
c) Thái độ và kết quả học tập của HS trong các giờ có sử dụng thí nghiệm biểu diễn SH
Về thái độ của HS đối với môn học, chúng tôi đã điều tra và kết quả được thể hiện qua bảng 1.3
Bảng 1.3. Kết quả điều tra lí do học sinh thích học môn Sinh học
Lí do thích học môn SH
Số phiếu
Tỉ lệ (%)
- Thầy, cô dạy dễ hiểu, hấp dẫn
- Được quan sát, được làm TN
- Thầy (cô) vui tính, yêu quý HS.
- Lí do khác
56
48
7
8
47.05
40.0
5.90
7.05
Qua bảng số liệu bảng 1.3 cho thấy, lí do hàng đầu khiến HS thích học môn SH là phương pháp giảng dạy của GV và một lí do thứ hai khiến cho HS yêu thích môn học đó là được quan sát, được làm TN. Điều này một lần nữa. Khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động TN trong dạy học SH.
d) Quá trình sử dụng thí nghiệm của GV trong quá trình dạy học sinh học ở trường THPT hiện nay.
Kết quả kiểm tra tình hình sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học được thể hiện ở bảng 1.4 như sau:
Bảng 1.4. Kết quả điều tra thực trạng sử dụng thí nghiệm trong tiến trình dạy học SH.
Tiêu chí
Nội dung
Số
phiếu
Tỉ lệ
(%)
Các bài sử dụng TN
- Lý thuyết
- Thực hành
2
44
4.4
95.6
Kết quả 1.4 cho thấy: TN chủ yếu được GV sử dụng trong các bài thực hành (95.6%) còn các khâu trong quá trình dạy học lý thuyết rất ít khi được đưa vào (4.4%).
2.2 Nguyên nhân của thực trạng
Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thực hành TN ở nhiều trường THPT chưa đảm bảo đặc biệt là các trường THPT miền núi. Trong đó, sự thiếu hụt về chủng loại và suy giảm về chất lượng thiết bị, dụng cụ là nguyên nhân khách quan cơ bản nhất.
Vấn đề cốt lõi dẫn đến hiệu quả sử dụng các TN chưa cao là do khả năng và mức độ sử dụng của GV. Thực tế cho thấy, quá trình sử dụng các TN biểu diễn của GV còn gặp nhiều khó khăn, việc chuẩn bị công phu mất nhiều thời gian, không áp dụng theo đúng qui trình TN đã gây một số khó khăn cho GV về mặt thời gian cũng như kết quả của TN. Hơn nữa, mặc dù nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của TN nhưng mức độ sử dụng TN trong dạy học là không thường xuyên, GV chưa tự giác trong việc khai thác, sử dụng TN trong giảng dạy, sợ nếu không có kết quả hoặc kết quả thực hành khác với kiến thức chuẩn thì sẽ gây phản tác dụng đối với người học. Do đó, GV rất ngại khi sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong các khâu khai thác kiến thức mới của bài học. Vì vậy chất lượng dạy học không cao, chưa phát huy tối đa tiềm lực của học sinh. 
Từ kết quả điều tra, khảo sát thực trạng việc sử dụng TN trong quá trình dạy học SH ở trường THPT cho phép đi đến kết luận: việc thiết kế và sử dụng hiệu quả sử dụng TN biểu diễn trong dạy học SH là vấn đề cấp bách, cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
2.3. Thiết kế và sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong day học sinh học tế bào ( sinh học 10 cơ bản).
2.3.1 Hệ thống hóa chương trình sinh học tế bào( SH 10- cơ bản). Được trình bày trong bảng 2.
 Bảng 2.1. Nội dung SGK Sinh học 10 – cơ bản
Chương I.
 Thành phần hóa học của tế bào 
 Giới thiệu các thành phần Hóa học của tế bào theo cấp độ tổ chức từ nguyên tử tới phân tử rồi đến các đại phân tử hữu cơ như cacbohiđrat, lipit, prôtêin và axit nuclêic. Qua các bài học của chương này chỉ ra rằng các đặc điểm sống của tế bào là do đặc điểm của các đại phân tử cấu tạo nên tế bào qui định.
 Trình bày vai trò nước, các hợp chất hữu cơ đối với tế bào.
Chương II. Cấu trúc của tế bào 
 Giới thiệu cấu trúc của tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực với mối liên hệ cấu trúc phù hợp với chức năng.
 Trình bày cấu trúc của màng và quá trình vận chuyển các chất qua màng.
Chương III. Chuyển hóa vật chất và năng lượng trong tế bào
 Giới thiệu các khái niệm cơ bản như năng lượng, nguyên lí chuyển hóa năng lượng trong tế bào; enzim và vai trò của enzim trong quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng của tế bào. Giới thiệu quá trình phân giải đường tạo năng lượng hữu ích cho tế bào.
Chương IV.Phân bào
 Giới thiệu khái quát về chu kì tế bào, quá trình nguyên phân và giảm phân ở tế bào sinh vật nhân thực.
 Bài ôn tập phần SH tế bào nhằm hệ thống hóa kiến thức hệ thống hóa kiến thức.
2.3.2 Đặc điểm nội dung phần SH tế bào SH 10
Tế bào là đơn vị cơ sở của sự sống, được Robert Hooke phát hiện năm 1665 và năm 1839 Schleiden lần đầu tiên trình bày thuyết tế bào.
Chương trình SH ở trường THPT hiện nay, SH tế bào được dạy ở lớp 10, là phần khó nhưng rất quan trọng, đó là cơ sở khoa học để học các phần về SH vi sinh vật, SH cơ thể, SH quần thể, SH quần xã, hệ sinh thái và sinh quyển. Phần SH tế bào bao gồm những kiến thức về thành phần Hóa học của tế bào, cấu trúc tế bào, chuyển hóa vật chất và năng lượng, phân chia tế bào. Những kiến thức này được trình bày đi từ thành phần hóa học (Chương I) đến cấu tạo tế bào (Chương II), chuyển hóa vật chất và năng lượng (Chương III) và cuối cùng là sự phân chia tế bào (Chương IV). Cách bố trí như vậy phù hợp với lôgic nội dung và lôgic nhận thức của HS, giúp HS thấy được cấu tạo của các phân tử, mối tương tác giữa các phân tử để tạo nên các bào quan và các bào quan này lại tương tác với nhau để tạo nên tế bào – đơn vị tổ chức cơ bản của sự sống có khả năng thực hiện các chức năng quan trọng của sinh vật như trao đổi chất và trao đổi năng lượng cũng như sinh sản.
Khác với phần SH tế bào cũ, SH tế bào trong chương trình SH 10 hiện nay được bổ sung rất nhiều kiến thức mới và hiện đại như: trong phần chuyển hóa vật chất và năng lượng có khái niệm chuyển hóa vật chất và năng lượng (SGK cũ là trao đổi chất và năng lượng), quá trình hô hấp tế bào được trình bày với ba quá trình: đường phân, chu trình Crep và chuỗi truyền điện tử Trong phần phân bào,nếu như trong SGK Sinh học cũ đặc tính sinh sản và phân bào được giới thiệu rời rạc trong nhiều chương của lớp 10, 11 một cách sơ sài thì trong SGK SH 10 sự phân bào được giới thiệu tập trung vào một chương, điều đó nói lên tính lôgic của chương trình mới, xem sự phân bào như là một chức năng quan trọng của tế bào. Nhờ có cơ sở tế bào học của tế bào HS dễ dàng tiếp thu kiến thức về sinh sản, di truyền và biến dị. Như vậy có thể thấy, SH tế bào là phần rất khó nhưng vô cùng quan trọng trong chương trình SH phổ thông. HS phải nắm vững các kiến thức về cấu tạo, chức năng của tế bào cũng như bản chất của các hiện tượng, qui luật, quá trình SH diễn ra ở cấp độ tế bào để có cơ sở khoa học học tiếp các học phần SH tiếp theo. Mặt khác, SGK Sinh học 10 được trình bày theo quan điểm gắn kiến thức với việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội nên đòi hỏi cả GV và HS cần phải định hướng đúng cách dạy và cách học, học đi đôi với hành, kiến thức lí thuyết gắn liền với thực tiễn. Do đó, các TN thực hành trong phần SH tế bào có vai trò quan trọng, giúp HS hiểu được sâu sắc, toàn diện bản chất của các vấn đề SH, củng cố các kiến thức lí thuyết đã học, rèn luyện tư duy, kĩ năng, kĩ xảo thực hành, hình thành và phát triển tư duy kĩ thuật, giúp các em thêm yêu môn học.
2.3.3 Thiết kế các thí nghiệm biểu diễn sử dụng trong dạy học phần sinh học tế bào- lớp 10).
Trong khâu nghiên cứu bài mới, TN được sử dụng có tính chất nêu vấn đề GV có thể tổ chức dạy học trên lớp theo trình tự sau: Dựa vào nội dung của bài họ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_thiet_ke_va_su_dung_mot_so_thi_nghiem_bieu_dien_trong_d.doc
  • docBÌA SKKN.2018.doc
  • docDanh mục sáng kiến kinh nghiệm.doc
  • docMỤC LỤC.doc
  • docPHỤ LỤC.doc