SKKN Một số kinh nghiệm phát huy tính tíc cực sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy - Học vẽ tranh ở trường thcs Cẩm Bình

SKKN Một số kinh nghiệm phát huy tính tíc cực sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy - Học vẽ tranh ở trường thcs Cẩm Bình

Mĩ thuật môn học nhân văn, có nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nghệ thuật cho học sinh, cung cấp cho học sinh một số kiến thức ban đầu, giúp các em biết cảm thụ cái đẹp, yêu cái đẹp, biết cách rèn luyện đôi bàn tay, trí óc của chính mình để tạo ra cái đẹp bằng cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận riêng, góp phần xây dựng môi trường thẩm mĩ cho xã hội.

Trong chương trình Mĩ thuật Trung học cơ sở, phân môn vẽ tranh là một phân môn rất được học sinh yêu và ham thích vẽ, nhất là học sinh khối 6. Bởi vẽ tranh không chỉ là một hình thức học tập sáng tạo, phát triển năng khiếu mà còn là một hình thức giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua các bài học. Khi học vẽ tranh, các em sẽ sử dụng ngôn ngữ Mĩ thuật như: đường nét, hình ảnh, màu sắc .để xây dựng một bức tranh theo sự sáng tạo riêng, thông qua đó thể hiện cảm xúc, thái độ của mình trước mỗi chủ đề, mỗi hình ảnh trong cuộc sống.

Tranh vẽ của học sinh thể hiện sự phong phú về nội dung chủ đề, sự sáng tạo ngây thơ sinh động với các hình ảnh gần gủi, quen thuộc như: con đường, hàng cây, dòng sông, con suối .hình ảnh những người thân yêu: ông bà, cha mẹ, thầy cô, luôn được các em yêu quý và kính trọng. Tất cả được các em thể hiện thật mộc mạc, ngây thơ, sinh động đầy thú vị. Song do trình độ nhận thức và năng khiếu của học sinh khác nhau nên các em có những cách thể hiện, cách học riêng, không giống nhau. Vậy không thể tác động đến quá trình nhận thức của các cá nhân học sinh bằng một biện pháp như nhau. Có học sinh phải tác động từ từ, có những học sinh lại phải vừa trực tiếp, vừa gián tiếp ở mỗi hoạt động mới nắm được vấn đề; có học sinh chỉ cần gợi mở, khích lệ là các em đã nhận biết được mụ tiêu, yêu cầu của bài học Và thực tế giảng dạy học sinh khối 6, với việc luôn từng bước đổi mới phương pháp dạy- học, tôi luôn đặt cho mình mục tiêu: Thực hiện đổi mới để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy cho bản thân và chất lượng học tập cho học sinh. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: "Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm Thủy" .

 

doc 24 trang thuychi01 11553
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm phát huy tính tíc cực sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy - Học vẽ tranh ở trường thcs Cẩm Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
 PHÒNG GD&ĐT HUYỆN CẨM THỦY
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI: 
MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH TÍC CỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH KHỐI 6 TRONG DẠY - HỌC VẼ TRANH Ở TRƯỜNG THCS CẨM BÌNH
 Người thực hiện: Trần Thị Duyên
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Bình
 SKKN thuộc lĩnh vực môn : Mỹ thuật
THANH HÓA NĂM 2015 -2016
I. PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài
Mĩ thuật môn học nhân văn, có nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nghệ thuật cho học sinh, cung cấp cho học sinh một số kiến thức ban đầu, giúp các em biết cảm thụ cái đẹp, yêu cái đẹp, biết cách rèn luyện đôi bàn tay, trí óc của chính mình để tạo ra cái đẹp bằng cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận riêng, góp phần xây dựng môi trường thẩm mĩ cho xã hội.
Trong chương trình Mĩ thuật Trung học cơ sở, phân môn vẽ tranh là một phân môn rất được học sinh yêu và ham thích vẽ, nhất là học sinh khối 6. Bởi vẽ tranh không chỉ là một hình thức học tập sáng tạo, phát triển năng khiếu mà còn là một hình thức giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua các bài học. Khi học vẽ tranh, các em sẽ sử dụng ngôn ngữ Mĩ thuật như: đường nét, hình ảnh, màu sắc.để xây dựng một bức tranh theo sự sáng tạo riêng, thông qua đó thể hiện cảm xúc, thái độ của mình trước mỗi chủ đề, mỗi hình ảnh trong cuộc sống.
Tranh vẽ của học sinh thể hiện sự phong phú về nội dung chủ đề, sự sáng tạo ngây thơ sinh động với các hình ảnh gần gủi, quen thuộc như: con đường, hàng cây, dòng sông, con suối.hình ảnh những người thân yêu: ông bà, cha mẹ, thầy cô,luôn được các em yêu quý và kính trọng. Tất cả được các em thể hiện thật mộc mạc, ngây thơ, sinh động đầy thú vị. Song do trình độ nhận thức và năng khiếu của học sinh khác nhau nên các em có những cách thể hiện, cách học riêng, không giống nhau. Vậy không thể tác động đến quá trình nhận thức của các cá nhân học sinh bằng một biện pháp như nhau. Có học sinh phải tác động từ từ, có những học sinh lại phải vừa trực tiếp, vừa gián tiếp ở mỗi hoạt động mới nắm được vấn đề; có học sinh chỉ cần gợi mở, khích lệ là các em đã nhận biết được mụ tiêu, yêu cầu của bài họcVà thực tế giảng dạy học sinh khối 6, với việc luôn từng bước đổi mới phương pháp dạy- học, tôi luôn đặt cho mình mục tiêu: Thực hiện đổi mới để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy cho bản thân và chất lượng học tập cho học sinh. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: "Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm Thủy" .
 2. Mục đích nghiên cứu 
	Trong đề tài này này tôi nêu và giải quyết một số vấn đề sau:
	*Một số cơ sở lí luận có liên quan đến đề tàI
	*Thực trạng của vấn đề phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh trong dạy và học vẽ tranh mỹ thuật nói chung và vấn đề phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh khối 6 trong phân môn vẽ tranh ở trường thcs Cẩm Bình nói riêng.
	*Các giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo ở hoc sinh khối 6 trong phân môn vẽ tranh trường THCS Cẩm Bình, Cẩm Thuỷ và những kết quả đạt được.
	*Một số bài học kinh nghiệm
	*Một số ý kiến đề xuất và kiến nghị
 3. Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu, tổng kết về một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm Thủy.
 4. Phương pháp nghiên cứu 
	4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận 
Thu thập sách báo có liên quan đến đề tài sau đó phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các nguồn thông tin có liên quan đến môn Mĩ thuật, mà trọng tâm là việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học môn mỹ thuật ở bậc THCS.
	4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
	4.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (Nghiên cứu qua các văn bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học vẽ tranh ở bậc trung học).
	4.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn vẽ tranh ở bậc THCS.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm.
- Cho học sinh hoạt động vẽ ngoài trời.
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp mà mình đề ra.
 II. NỘI DUNG
	1. Cơ sở lý luận:
Mĩ thuật là một trong những phân môn đòi hỏi tính sáng tạo giàu tính thẩm mỹ, làm cho con người biết tạo ra cái đẹp và vận dụng vào cuộc sống. Vì thế nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách lối sống của mỗi con người.
Nhưng để phát huy hết tính sáng tạo ở lứa tuổi học sinh THCS là một vấn đề hết sức khó khăn. Kinh nghiệm của các em chưa nhiều vì các em chỉ vẽ theo cảm tính hoặc sao chép theo mẫu cho nên hiệu quả bài học chưa cao, chưa phát huy hết khả năng của các em. Do đó cần có những kĩ năng truyền đạt mới để tạo thêm hứng thú trong học tập sáng tạo cho các em.
Trên cơ sỏ đổi mới phương pháp dạy học tích cực phát huy hiệu quả của học sinh đòi hỏi người giáo viên phải biết khai thác tìm tòi những câu hỏi những gợi ý ví dụ cụ thể. Nhằm tạo cho các em có thói quen suy nghĩ tích cực suy nghĩ trong học tập và sáng tạo. 
Biết vận dụng tổng hòa các kiến thức và kỹ năng của nghệ thuật tạo hình như lựa chọn nội dung, hình tượng nhân vật, hình ảnh đặc trưng của từng đề tài , cách sắp xếp bố cục, hình vẽ, màu sắc,, thể hiện không gian cùng với cảm xúc người vẽ nhằm đáp ứng nhu cầu của môn học là yếu tố cần thiết đặt ra đối với người dạy. Do đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm Thủy" để nghiên cứu và từng bước áp dụng vào giảng dạy.
	2. Thực trạng dạy - học của phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường THCS Cẩm Bình. 
	2.1 Thực trạng dạy - học phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường THCS nói chung: 
Nội dung chương trình dạy Mỹ thuật hiện nay còn quá nhiều thiếu sót. Phương tiện, đồ dùng dạy vẽ, tài liệu trực quan về môn mỹ thuật chưa được chú ý nghiên cứu và sản xuất, do đó có thể nói chung còn quá lạc hậu, nghèo nàn, tiếu thốn, cũ nát. 
Đây là môn học vừa có lý thuyết vừa có thực hành cho nên cần tăng cường các điều kiện để giáo viên và học sinh thuận lợi khi dạy và học. Trên thực tế thời lượng thực hiện bài dạy ít. Trong khi đó nhiệm vụ thực hiện bài dạy quá nhiều, chưa đảm bảo được chất lượng tiết học. Qua khảo sát, , đã cho thấy thời gian học nghệ thuật còn quá khiêm tốn nên việc giáo viên hướng dẫn làm bài cho học sinh còn bị hạn chế. Giáo viên không thể đi sâu bám sát và theo dõi kỹ bài làm của học sinh được nên các em còn gặp phải những khó khăn khi làm bài tập.
Một thực tế cũng cần nêu là có hiện tượng học sinh lớp 6 rất ngại học môn vẽ tranh. Nhiều học sinh vẽ sai, vẽ dở không phải vì không có năng khiếu mà vì không thích học vẽ. Một số khác thì không có tiền mua họa phẩm để học nghệ thuật. 
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất ở trường hiện nay còn lạc hậu và có quá nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ và hợp lý. Là giáo viên đứng lớp, bản thân hiểu rằng việc dạy Mỹ thuật ở trường Trung học cơ sở và các bậc học khác không chỉ là môn học bắt buộc có điểm mà người giáo viên có trách nhiệm khơi dậy và tạo nên hứng thú sáng tạo, tình yêu nghệ thuật cho học sinh từ đó bồi dưỡng những giá trị đạo đức, chuẩn mực bước đầu nhân cách tình cảm cho học sinh với mục đích chính là để học sinh có cảm xúc chân thành trước cái vẻ đẹp, biết cảm thụ và yêu thích phân môn vẽ tranh chứ không phải dạy các em biết vẽ, sáng tác như một hoạ sĩ.
Chương trình dạy cho học sinh THCS hiện nay là vừa phải, dù có một số ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung với thực tế hiện nay và yêu cầu đảm bảo chất lượng giáo dục thì chương trình đào tạo Mỹ thuật đã có những bước đi phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên để đáp ứng được các yêu cầu mở rộng và phát triển trong nhà trường thì cần phải tăng cường hơn nữa trang thiết bị, giáo cụ trực quan, đồ dùng dạy học để việc dạy Mỹ thuật đạt được kết quả - chất lượng tốt hơn làm cho học sinh thực sự yêu thích môn học và có được sự cảm thụ thẩm mỹ tốt.
	2.2 Thực trạng dạy - học phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường THCS Cẩm Bình:
	Qua tìm hiểu thực tế ở trường Trung học cơ sở Cẩm Bình - huyện Cẩm Thủy - Thanh Hóa, bản thân tôi nhận thấy: 
Ban giám hiệu và các giáo viên bộ môn nói chung đều thấy sự cần thiết của việc sáng tạo ở bất cứ lĩnh vực nào. Do vậy, việc cần thiết là giáo viên phải luôn nỗ lực, phấn đấu để trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi vốn hiểu biết về cuộc sống. Đồng thời phải luôn thay đổi phương pháp dạy học, tích cực, chủ động trong mọi tình huống sư phạm để giúp học sinh phát triển mọi mặt. 
Cũng từ thực trạng của việc dạy và học phân môn vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bình, vẫn còn tình trạng nhiều em học sinh chưa muốn thay đổi mình, còn phụ thuộc vào mẫu sẵn có trong sách giáo khoa, trong tranh ảnh có sẵn, nên các em luôn bị động, ít sáng tạo, thiếu hiểu biết về cuộc sống. 
Phần lớn phụ huynh học sinh ít quan tâm đến việc giáo dục con em mình học tập môn Mĩ thuật, các em ít có sự chuẩn bị từ đồ dùng, dụng cụ học tập đến việc sưu tầm tranh, ảnh...
	Qua khảo sát tôi thấy chất lượng vẽ chưa đạt cao, học sinh chưa có hứng thú học với phân môn vẽ tranh . Cụ thể: 
Lớp
Sĩ số
Đ
%
CĐ
%
6A
30
22
73
8
27
6B
32
25
77
7
23
6C
30
20
67
10
33
Do vậy, để giải quyết tình trạng này, bản thân tôi nhận thấy cần phải có một số giải pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo ở học sinh, từ đó giúp các em có cái nhìn tốt đẹp hơn về môn học Mĩ thuật, về sự tồn tại của cái đẹp trong cuộc sống. Đăc biệt là đối với phân môn vẽ tranh, phân môn đòi hỏi sự sáng tạo thường xuyên và ý thức tự trau dồi bản thân ở cả giáo viên lẫn học sinh.
	3. Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo ở học sinh khối 6 trong dạy - học vẽ tranh. 
	3.1. Tính tích cực sáng tạo trong dạy - học vẽ tranh.
 	Tính tích cực học tập của học sinh được biểu hiện ở việc học sinh tích cực tham gia trả lời câu hỏi, tích cực phát biểu ý kiến hay thắc mắc những vấn đề chưa rõ, vận dụng những kiến thức kĩ năng đã học, tập trung chú ý vào những vấn đề đang học, không nản trước tình huống khó khăn. Còn trí sáng tạo là khả năng sản sinh ra những ý tưởng mới, độc dáo, hữu ích phù hợp với mỗi chủ đề của tranh. Dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh là nhiệm vụ quan trọng của dạy – học Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng nhằm đào tạo thế hệ học sinh năng động sáng tạo trong học tập và trong công việc.Vậy giáo viên có vai trò như nào trong việc phát huy tính tích cực học tập ở học sinh?
	3.2. Nâng cao và phát huy vai trò của giáo viên.
	Để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh thì giáo viên chính là “linh hồn” của giờ dạy – học, sinh động và sáng tạo. Giáo viên đóng vai trò là người gợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động học độc lập của học sinh để đánh thức năng lực, tiềm năng trong mỗi em. Các em tích cực hoạt động, tìm ra “cái chưa biết ”, “cái cần khám phá” để đi đến tích lũy tri thức. Những tri thức, kĩ năng học sinh lĩnh hội được không rập khuôn theo khuôn mẫu có sẵn mà các em tự đi tìm cái chưa biết khác. Giáo viên cần quan tâm, vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm từng cá nhân cũng như tập thể học sinh để xây dựng bài học. Những dự kiến của giáo viên phải tập trung vào các hoạt động của học sinh và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng với kĩ năng diễn biến các hoạt động của học sinh để khi lên lớp có thể linh hoạt, điều chỉnh diễn tiến của tiết học.
 Với bản thân tôi, cũng như bao đồng nghiệp khác, tôi luôn tự học, tự bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; trang bị những kiến thức cần thiết và tìm kiềm thông tin có liên quan trước khi bước vào tiết dạy. Nhất là luôn gần gũi, hỏi han thăm dò học sinh để nắm bắt được hoàn cảnh, tâm lí, mức độ ham thích và năng lực tiếp thu của học sinh. Từ đó có sự vận dụng phương pháp và cách thức tổ chức cũng như đưa ra mức độ kiến thức phù hợp với mỗi học sinh. Giúp các em nắm được nội dung chính và yêu cầu cần đạt được ở một bài vẽ tranh (về kiến thức, kĩ năng, giáo dục thái độ, tình cảm cho học sinh), cho phép học sinh tự mình khám phá, tìm tòi những nội dung mới, đáp ứng nhu cầu cá nhân và nhu cầu của nhóm học tập.
 Đối với những học sinh có năng lực trung bình, tôi gợi ý cụ thể rõ ràng cho các em tìm nội dung hình ảnh phù hợp; Còn học sinh khá, giỏi thì khích lệ các em suy nghĩ, tìm hình ảnh, màu sắc cho bài vẽ sinh động. Từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
	 3.3 Phương pháp dạy - học, thiết kế và sử dụng giáo cụ trực quan.
 Mỹ thuật là môn học trực quan. Môn mỹ thuật ở trường Trung học cơ sở thường dạy bằng trực quan bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Riêng với Mỹ thuật, tất cả các phân môn đều phải sử dụng đồ dùng trực quan bao gồm những gì có thực như: Các đồ vật, hoa quả, động vật, cỏ cây, nhà cửatranh ảnh như: Hình vẽ trên bảng, bảng biểu, bài vẽ của học sinh
Dạy Mỹ thuật thường dạy trên đồ dùng trực quan. Do vậy đồ dùng trực quan của môn Mỹ thuật là nội dung, là kiến thức của bài học. Đồ dùng trực quan còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học và trình độ của học sinh, cho nên chuẩn bị tốt đồ dùng trực quan xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt nội dung bài dạy và quá trình lên lớp chỉ còn là trình bày, diễn giải theo đồ dùng trực quan đã chuẩn bị.
	- Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật
Phương pháp trực quan được thể hiện qua cách giáo viên trình bày nội dung, kiến thức của bài học qua vật thật, hình tượng hay hình ảnh nhằm giúp học sinh hiểu bài được dễ dàng và vững chắc hơn. 
Có thể vận dụng phương pháp trực quan như sau: 
- Trình bày đồ dùng dạy - học phải khoa học, đúng lúc, rõ ràng, phù hợp với nội dung; giới thiệu hay cất đồ dùng dạy - học phải hợp lí, có thể: 
• Giới thiệu xong từng đơn vị kiến thức nên cất đi vì một số học sinh thường rập khuôn, sao chép lại mẫu. 
• Lời giới thiệu nội dung hoặc các câu hỏi gợi ý học sinh suy nghĩ của giáo viên phải ăn khớp cùng thời điểm với sự xuất hiện đồ dùng dạy - học
• Giáo viên cần chỉ vào những nơi cần thiết ở đồ dùng dạy - học để nhấn mạnh trọng tâm của bài . Không để học sinh bị các chi tiết lôi cuốn mà không tập trung vào những điểm chính. 
Không lạm dụng quá nhiều đồ dùng dạy - học hoặc kéo dài thời gian làm cho học sinh dễ phân tán chú ý. 
Cho học sinh vận dụng nhiều giác quan (nghe, nhìn, ngửi, sờ, ). 
Trình bày bảng: Bảng cũng là đồ dùng dạy - học khi lên lớp, do đó giáo viên cần lưu ý: 
* Trình bày bảng gồm có kênh hình và kênh chữ, trình bày khoa học, thẩm mĩ, rõ ràngChữ viết phải to vừa phải, kiểu chữ chân phương, các đề mục phải rõ ràng. Kênh hình phải trình bày có hệ thống, không chen lấn kênh chữ
	- Trong dạy học phân môn vẽ tranh:
	+ Giáo cụ trực quan
Đó là tranh ảnh, mô hình, vật thật, băng hình, máy chiếu, đèn chiếu, các loại phiếu học tập, mẫu vật, hình khối,
	+ Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn vẽ tranh:
Chúng ta đã biết rằng nghệ thuật bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống phản ánh chân thực và phục vụ cuộc sống. Trong đó người nghệ sĩ biểu hiện tâm hồn hay trạng thái tình cảm của mình. Nghệ thuật luôn phản ánh cái đẹp trong đời sống, ở đâu cái đẹp cũng làm chuẩn cho giá trị. Trong lĩnh vực nghệ thuật cái đẹp là linh hồn sống của nghệ thuật. Vì cái đẹp mà nghệ thuật mới tồn tại không có cái đẹp thì nghệ thuật không có công chúng. Phản ánh nghệ thuật là phản ánh theo quy luật cái đẹp, nghệ sĩ đứng từ lý tưởng cái đẹp mà phản ánh cuộc sống vào tác phẩm của mình. Cái đẹp trong nghệ thuật là một hình thức cao của cái đẹp bao gồm có ba yếu tố tạo hình: Phản ánh chân thực và sáng tạo cuộc sống của con người, xã hội trong tính toàn vẹn đa diện, cụ thể và sinh động, có sự hài hoà giữa nội dung và hình thức, sự chân thành và triệt để của ý thức xã hội được nghệ sĩ gửi gắm vào tác phẩm. Góp phần hướng công chúng tới chất người, tính nhân văn và nhân đạo đích thực.
Phương pháp dạy học trực quan là phương tiện để người giáo viên truyền tải những gì mà người nghệ sĩ phản ánh chân thực, sinh động, khái quát thực tế thời đại trong thời gian ngắn. Hay nói cách khác, vai trò quan trọng nhất của phương pháp trực quan là giúp cho công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao. 
+ Phương pháp quan sát.
Quan sát với tư cách là một phương pháp dạy học là các cách thức dùng các giác quan (có thể kết hợp với sử dụng phương tiện kỹ thuật), để tri giác các sự vật, hiện tượng, các tài liệu học tập trong những điều kiện tự nhiên của chúng. Đây là sự tri giác có mục đích,có kế hoạch nhằm mục tiêu dạy học, do vậy khi thực hiện phương pháp này đòi hỏi phải tiến hành quan sát một cách có hệ thống, tài liệu quan sát phải được ghi chép một cách khách quan đảm bảo tính tiêu biểu. Tuỳ theo mục đích, tính chất học tập có thể cho người học quan sát trực tiếp hoặc gián tiếp, quan sát khía cạnh hay toàn diện, quan sát số lượng hay chất lượng, quan sát giai đoạn hay cả quá trình. Phương pháp quan sát đòi hỏi người giáo viên tổ chức cho hoạt động nhận thức cảm tính cho học sinh, qua đó hình thành biểu tượng về tự nhiên, xã hội và con người, phát triển các năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực quan sát cho họ. Đây là phương pháp dạy học có ý nghĩa đặc biệt với học sinh phổ thông để hình thành các biểu tượng và phát triển hoạt động nhận thức cảm tính của học sinh. Học sinh có thể quan sát các sự vật, hiện tượng sinh động để vận dụng hình thành các khái niệm, quy luật, định luật trừu tượng, khái quát, từ đó giúp người học hiểu biết được chính xác và cụ thể hơn.
+ Phương pháp minh hoạ. 
Sử dụng các phương tiện trực quan ở các dạng khác nhau để minh hoạ, cụ thể hoá nội dung dạy học. Trong môn Mỹ thuật, có thể sử dụng các phương tiện trực quan như: các vật thật (các đồ vật,chai lọ, hoa quả); bảng biểu minh hoạ về cách tiến hành bài vẽ (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài ); bộ bài vẽ của giáo viên và học sinh (theo chương trình) ở các dạng khác nhau (để gợi ý suy nghĩ, sáng tạo, ở những mức độ khác nhau: đẹp, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu) để học sinh phân tích so sánh, tham khảo; các phương tiện nghe, nhìn (video, băng đĩa, nghi âm); cũng có khi phương tiện trực quan lại là các ví dụ thực tiễn, các số liệu hay các thao tác mẫu của giáo viên. Ngoài ra, nên coi trọng việc sử dụng bảng và ngôn ngữ giàu hình tượng của người dạyNhững phương tiện trực quan đó đặc biệt có tác dụng tốt trong việc tạo ra điểm tựa thị giác cho người học, làm cho cái chưa được biết trong nội dung học tập trở nên gần gũi, có thể “tri giác” trực tiếp qua lời giảng, chữ viết và cả cử chỉ, điệu bộ của giáo viên. Phương pháp minh hoạ gây hứng thó học tập, phát triển năng lực quan sát, kích thích tư duy của học sinh.
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Đây cũng là phương pháp dạy học phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Trong dạy học phương pháp trực quan đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình dạy học. Đối với môn vẽ tranh, đồ dùng trực quan càng quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả của tiết dạy rất nhiều. 
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo ở học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh tức là đề cập tới cách dạy sao cho học sinh thấy ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể để các em hiểu nhanh, nhớ lâu, dù là những khái niệm trừu tượng, như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn chứa trong bố cục, nét vẽ, màu sắc mà nghệ sĩ muốn “nói”. Có như thế các em mới có hứng thú học tập.
Như vậy, trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông không thể thiếu việc kết hợp sử dụng các phương pháp trực quan của người giáo viên trong dạy học.
	3.4.Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy - học. 
 Đồ dùng dạy – học của giáo viên và học sinh là phương tiện cần thiết cho việc truyền đạt và tiếp nhận tri thức. Dựa vào mục tiêu, yêu cầu của bài học mà chuẩn bị đồ dùng sao cho phù hợp. Có thể nói: đồ dùng dạy – học chứa đựng nội dung bài dạy. Đối với giáo viên, muốn học sinh hiểu về đề tài và vẽ tranh đẹp cần cho các em xem tranh, qua đó giúp các em biết cách chọn nội dung chủ đề và biết xây dựng hình tượng và màu sắc cho bức tranh. Đồ dùng phục vụ tốt cho bài 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_phat_huy_tinh_tic_cuc_sang_tao_cho_h.doc