SKKN Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

SKKN Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của việc đổi mới. Như chúng ta ai cũng biết môn Toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục cũng đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Giải toán có lời văn là những bài toán thực tế nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc liên quan đến cuộc sống hằng ngày với các em. Từ đó giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ Tình huống toán học” trong cuộc sống hàng ngày.

 Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.

 

doc 20 trang thuychi01 8524
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Tên đầu mục
Trang
MỤC LỤC
1
1. MỞ ĐẦU
2
1.1.Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng về kỹ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – Trường Tiểu học Xuân Minh – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
4
2.3. Một số kinh nghiệm đã thực hiện
6
2.3.1. Tìm hiểu thực tế
6
2.3.2. Hình thành đôi bạn học tập
7
2.3.3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
8
2.3.4. Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
10
	2.3.5 Hướng dẫn giải toán và trình bày lời giải
12
3. 2.3.6. Hướng dẫn chấm chữa
14
2.3.7.Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập
15
3. 2.4. Hiệu quả đạt được 
15
3. KẾT LUẬN
17
1. MỞ ĐẦU
 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
  Dưới sự lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của việc đổi mới. Như chúng ta ai cũng biết môn Toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Trong những năm gần đây, xu thế chung của ngành giáo dục cũng đang đổi mới về phương pháp dạy học, về cách đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Giải toán có lời văn là những bài toán thực tế nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc liên quan đến cuộc sống hằng ngày với các em. Từ  đó giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những “ Tình huống toán học” trong cuộc sống hàng ngày.
  Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.
  Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 22 của Bộ GD&ĐT có rất nhiều điểm mới, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lí do để giáo viên cần quan tâm tỉ mỉ  và thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp khi học sinh học các môn học trong đó có môn Toán. Năm học 2017-2018 tôi được phân công dạy lớp 2A. Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn trong chương trình toán ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 2A nói riêng là hết sức cần thiết, ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt suy luận, phân tích. Việc dạy giải toán có lời văn ở Tiểu học sẽ góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng suy luận, và kĩ năng giải toán đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên.Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài: " Một số kinh nghiệm nhỏ giúp học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 ".
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề lí luận đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng việc Dạy- học toán có lời văn lớp 2 và đưa ra các Biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, Trường Tiểu học Xuân Minh- Thọ Xuân – Thanh Hóa
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
Học sinh lớp 2 – Trường Tiểu học Xuân Minh- Huyện Thọ Xuân – Tỉnh Thanh Hóa.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp dự giờ và quan sát thông qua dự giờ.
Phương pháp thống kê, sử lí số liệu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
 Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giảiCòn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
 Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức , các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó , từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận logic . Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc.
	Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
	Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đềMột số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?...Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giảiNhững nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.
	Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
 2.2.Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2 – Trường Tiểu học Xuân Minh- Thọ Xuân – Thanh Hóa.
 a. Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi: 
 Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ huynh học sinh.
 Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và học sinh.
 Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ. 
 Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, thật thà, trung thực và có ý thức vươn lên trong học tập.
* Khó khăn:
 - Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học tập của các em.
- Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
- Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
 b. Thực trạng của lớp.
Năm học 2017-2018 tôi được phân công giảng dạy lớp 2A Trường tiểu học Xuân Minh – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
Lớp 2A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 25 học sinh. Trong đó: 
Con cán bộ công chức: 1 em.
Con gia đình nông nghiệp: 24 em.
Nam: 12 em; nữ: 13 em.
Các em ở rải rác khắp 6 thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
- Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp
+ Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều – phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán có lời văn của 25 học sinh lớp 2A và thu được kết quả như sau:
Sĩ số
 Giải thành thạo
 Kĩ năng giải chậm
Chưa nắm được cách giải
25 em
 5 em = 20 %
 7 em = 28 %
 13 em = 52% 
 Kết quả thu được tôi thấy rằng số học sinh giải thành thạo toán có lời văn rất ít, chỉ có 5 em chiếm 20% , trong khi đó giải chậm cũng chỉ có 7 em tỉ lệ 28% , trong khi đó số học sinh chưa nắm được cách giải khá nhiều, có tới 13 em chiếm tỉ lệ 52%, điều này cho thấy học sinh giải toán có lời văn rất hạn chế
 Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
 2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐÃ THỰC HIỆN
  2.3.1. Tìm hiểu thực tế
  Để dạy và học tốt việc đầu tiên của người giáo viên chủ nhiệm đó là cập nhật nắm bắt các thông tin về học sinh mình. Làm được điều đó thì mỗi giáo viên có cách làm khác nhau. Là giáo viên chủ nhiệm ai cũng mong muốn học sinh mình học tốt, chăm ngoan. Muốn biết được cụ thể từng học sinh như thế nào, công việc đầu tiên của tôi đó là tìm hiểu thực thế từng học sinh. Công việc được thực hiện như sau:
  Sau khi nhận lớp tôi tự tìm hiểu thực tế học sinh  của lớp mình với nhiều hình thức như: khảo sát thông tin học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm năm trước, thông qua các giáo viên bộ môn, thông qua phụ huynh... Học sinh lớp 2A tôi chủ nhiệm có 25 em, nữ chiếm 13 em.  Trong đó số học sinh  có hoàn cảnh khó khăn có: 2 em hộ nghèo, 2 em hộ cận nghèo, 5 em có hoàn cảnh khó khăn, 7 em ở với ông bà do cha mẹ đi làm ăn xa. Mặt khác trình độ các em không đồng đều (trong lớp vẫn còn đến 2 độ tuổi),  sự quan tâm của  cha mẹ cũng không đều... Một số phụ huynh không biết chữ, trình độ dân trí còn hạn hẹp. Việc học của các em hầu như khoán trắng cho giáo viên trên lớp. Theo thông tư 22 của Bộ GD&ĐT thì việc học tập cuả các em phải hoàn thành trên lớp, không yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập. Ở lớp thời lượng một tiết dạy ( 35-40 phút) rất hạn chế với những học sinh còn khó khăn trong học tập. Với những lí do trên cũng ảnh hưởng không ít đến việc học của các em.
  Sau khi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh của từng em, bước tiếp theo tôi tiến hành khảo sát việc học Toán của học sinh trong lớp. Nhận lớp khoảng hai tuần tôi tiến hành khảo sát bằng cách ra đề kiểm tra môn toán, trong đó có các dạng bài tập và một số bài toán giải theo chuẩn kiến thức. Kết quả đạt như sau:
  Chất lượng học sinh học gải Toán có lời văn đạt như sau
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
8 em ( 48%)
12 em ( 52% )
5 = 20%
 Sau khi khảo sát xong tôi thông kê việc học tập của các em theo từng mức độ đạt được của từng em . Từ kết quả đó tôi thông báo kết qủa khảo sát cho phụ huynh với nhiều hình thức như: thông qua sổ liên lạc, gặp trực tiếp để trao đổi để cùng phụ huynh phối hợp. Theo thông tư 22 của BGD&ĐT phụ huynh có quyền tham gia đánh giá chất lượng của con em họ với hình thức  thông báo kết quả giúp đỡ con em mình khi được giáo viên chủ nhiệm thông báo tình hình học tập của các em. Việc tìm hiểu thực tế học sinh là việc làm cần phải có, công việc này tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình dạy học. Thông qua kết quả đó tôi  phân loại học sinh theo nhóm đối tượng vào sổ nhật ký cá nhân để tiện việc theo dõi giúp đỡ từng học sinh. Đồng thời lập kế hoạch cá nhân để có biện pháp giúp đỡ các em với các biện pháp cụ thể trong từng tiết học, bài học.
Ví dụ: Phân loại học sinh vào sổ theo dõi cá nhân:
 Tháng
Học và tên học sinh
Ghi chú
Trịnh Thị Khánh Huyền
Tháng thứ nhất
Lúng túng khi phân tích bài toán, viết lời giải
Tháng thứ hai
Có tiến bộ khi phân tích bài toán, viết lời giải chưa được chính xác.
.....
.....
Tháng
Học và tên học sinh
Ghi chú
Đỗ Hà Anh
Tháng thứ nhất
Đọc bài Toán còn chậm
Tháng thứ hai
Khi phân tích bài toán còn nhầm lẫn.
 Viết lời giải chưa được chính xác.
.....
.....
 Mỗi em tôi lập một trang trong sổ theo dõi cá nhân của giáo viên. Hàng tháng tôi nhận xét cụ thể từng học sinh với bộ môn Toán trong sổ nhật kí và thông báo với phụ huynh về sự tình hình học tập của các em thông qua sổ liên lạc. Theo thông tư 22 giáo viên cần sử dụng sổ liên lạc thường xuyên để thông báo việc học tập của các em. Từ thực tế tôi thấy các em như: Đỗ Hà Anh, Trịnh Thị Khánh Huyền, Mai Văn Tùng Dương, Mai Văn Nam, Lê Chí Thanh, Đỗ Quỳnh Chi khi giải Toán có lời văn các em thường gặp khó khăn. Với những thực tế đó tôi tìm cách đưa ra phương pháp dạy học phù hợp với từng học sinh để giúp các em có kĩ năng giải toán tốt.
  Từ kết quả đó sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh phù hợp như: Xếp cho những học sinh có năng lực trong học tập ngồi gần những học sinh còn gặp khó khăn trong học tập, giáo viên thường xuyên giúp đỡ các em trong 10 phút tự quản .
   2.3.2. Hình thành đôi bạn học tập:
  Việc hình thành các đôi bạn học tập rất có ích đối với các em. Do vậy mà tôi đã hình thành đôi bạn học tập ở lớp, đôi bạn học tập ở nhà. Ở lớp thì những em hạn chế về năng lực học tập sẽ được ngồi bên những học sinh có năng lực về học tập,  với giải pháp này giáo viên tiện việc theo dõi và giúp đỡ các em. Trong học tập cùng trang lứa các em sẽ thích học bạn hơn học thầy, các em cùng học, cùng chơi. Thuận tiện cho việc trao đổi và cùng nhau hợp tác. Thông qua đây các em có năng lực sẽ có điều kiện giúp đỡ bạn mình trong học tập. Trong 10 phút đầu giờ các em sẽ tự làm bài, tự kiểm tra nhau. Các em có năng lực trong học tập sẽ theo dõi sự tiến bộ của bạn mình và báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm đầu giờ học. Hình thành đôi bạn học tập không chỉ giúp các em cùng nhau học tập mà còn cùng nhau giải đáp thắc mắc. các em sẽ có cơ  hội thể hiện mình trước bạn bè, rèn kĩ năng mạnh dạn trong giao tiếp.
  Giáo viên theo sát các đối tượng học sinh bằng cách trực tiếp, thông qua các học sinh để động viên khuyến khích kịp thời, hoặc kiểm tra các em gặp khó khăn trong giải Toán với những bài tập trên lớp trong các tiết học chính khóa và tăng cường. vào thời gian kiểm tra bài đầu giờ giáo viên nên trực tiếp hướng dẫn các em gặp khó khăn trong học tập. Luôn yêu thương gần gũi các em , luôn tạo điều kiện cho các em có cơ hội thể hiện mình trước bạn bè trong lớp với mục đích giúp các em yêu thích đến trường, hăng say học tập, giúp các em hiểu rằng: “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
  2.3.3.  Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán
  Việc đọc thông thạo, lưu loát là một trong bốn kĩ năng của học sinh cần đạt. Các em muốn học tốt các môn trong đó có môn toán thì các em phải đọc tốt. Để tìm hiểu được nội dung bài toán việc đầu tiên cần phải có đó là học sinh phải đọc thông thạo. Do vậy mà trong các tiết Tiếng Việt tôi đã kết hợp việc đọc đúng, đọc hiểu cho học sinh để các em thuận lợi hơn khi học Toán
  Trong các bài toán muốn để học sinh hiểu và giải đúng thì tôi lưu ý hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài toán 2 đến 3 lần với các hình thức như đọc thầm, đọc thành tiếng trước lớp. Đối với học sinh lớp 2 việc hướng dẫn các em đọc kĩ đề bài toán là việc làm  quan trọng vì các em mới ở lớp một lên, các em chỉ đọc thuộc các chữ nhưng chưa hiểu nội dung mình đọc là gì? Bước này trước khi học sinh đọc đề bài toán (thời điểm đầu năm học) giáo viên định hướng để các em đọc mà hiểu chứ không đọc suông. Đối với các bài toán giải giáo viên chuẩn bị các  đề bài toán trên bảng phụ ( chuẩn bị đồ dùng dạy học) trong các tiết học Toán.  Khi đọc cần giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ khóa quan trọng nói lên tình  huống toán học bị che lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ thông thường như: "ít hơn", "nhiều hơn", tất cả", " cả hai"... khi đọc giáo viên nên gạch chân dưới các từ đó để học sinh dễ nhìn thấy ( đối với thời gian đầu năm học, về sau không cần gạch chân các từ đó). Nếu học sinh chưa hiểu tôi sẽ giúp các em hiểu nghĩa các từ đó.
 Ví dụ: Bài toán:  "Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát? " (sách Toán lớp 2 trang 11)
   Đối với các đề toán như thế này giáo viên thực hiện theo các bước sau:  
+ Giáo viên đọc yêu cầu bài toán, khi giáo viên đọc lưu ý nhắc học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên cần thể hiện ngữ điệu gây sự chú ý cho học sinh những yêu cầu bài toán cần giải quyết.
 + Gọi học sinh  đọc lại yêu cầu từ 2 đến 3 em, giảm giản về sau. 
+ Hướng dẫn phân tích giáo viên phải đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt để học sinh nhận biết các điều kiện đã có và điều kiện cần phải giải quyết với hệ thống các câu hỏi như sau: 
? Bài toán đã cho biết gì?
 ? Bài toán hỏi gì ? Bài toán yêu cầu tìm gì?
 Hoặc: Trong bài toán đã cho em biết gì và cần tìm gì?...
  Ví dụ: Bài toán:
  "Hòa có 4 bông hoa, Bình có nhiều hơn Hòa 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa " (sách Toán lớp 2 trang 24)
 Hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu nội dung bài toán như sau:
  - Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết Hòa có 4 bông hoa, Bình nhiều hơn Hòa 2 bông hoa).
  - Bài toán yêu cầu làm gì? ( Bài toán yêu cầu tìm số hoa của Bình)
  Đối với hệ thống câu hỏi giáo viên có thể nâng dần lên về sau khi học sinh đã có kĩ năng phân tích đề bài. Tuy nhiên ở bước này giáo viên có thể hướng dẫn các em tự đặt câu hỏi với nhau thông qua thảo luận nhóm ( học sinh có năng lực giúp các em còn hạn chế). Qua đây giúp các em tự tóm tắt bài toán về sau. Lưu ý ở bước này giáo viên nên phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Có thể các em đưa ra một số hệ thống câu hỏi khác ý giáo viên nhưng theo suy nghĩ của các em, không nhất thiết phải máy móc rập khuôn theo giáo viên. Thông qua đây phát huy tính  sáng tạo của học sinh .
  Ví dụ: Hệ thống câu hỏi trong bài toán "Năm nay ông 70 tuổi, bố kém ông 32 tuổi. Hỏi năm nay bố bao nhiêu tuổi?" ( Sách toán 2- trang 90) .Hệ thống câu hỏi có thể như sau:
 Số tuổi ông năm nay là bao nhiêu?
 Tuổi bố như thế nào so với tuổi ông?
  Bài toán hỏi tuổi ai?
 Hoặc:
 Ông năm nay bao nhiêu tuổi?
 Tuổi bố nhiều hơn hay ít hơn tuổi ông?
 Tuổi bố ít hơn tuổi ông bao nhiêu tuổi?
 Bài toán yêu cầu tìm tuổi ai?
  Với hệ thông câu hỏi trên hoàn toàn đúng. Trong bước phân tích bài toán giáo viên là người định hướng giúp học sinh phát huy tối đa năng lực của mình. Từ đây các em sẽ có hứng thú trong học tập và yêu thích học toán. Vì vậy giáo viên nên để học sinh tự đặt câu hỏi để phân tích bài toán tránh áp đặt các em.
  Trong quá trình Dạy- Học giáo viên nên xem các em là con người với đầy đủ quyền được vui chơi, được học tập, được lao động, được nhận thức,...được quyền hỏi và trả lời trong quá trình Dạy- Học.
  - Trong giờ học giáo viên nên tạo ra bầu không khí thoải mái, thường xuyên tỏ ra thân thiện gần gũi các em, với những lời nói nhẹ nhàng, cởi mở thái độ yêu thương tôn trọng các em.
  2.3.4.Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
  Sau khi tìm hiểu nội

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_nho_giup_hoc_sinh_giai_toan_co_loi_v.doc