SKKN Một số giải pháp giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2 ở trường Tiểu học Ba Đình

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2 ở trường Tiểu học Ba Đình

Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam”. Bởi vậy Giáo dục luôn được xác định là “Quốc sách hàng đầu” mà “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo”. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của nhà trường Tiểu học hiện nay, bên cạnh đó còn xuất phát từ mục tiêu cơ bản của ngành Giáo dục - Đào tạo đã đề ra, phải đào tạo con người mới phát triển toàn diện có đầy đủ tri thức, thông minh, sáng tạo và đức độ để sau này có thể làm chủ tương lai.

Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Trong các môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp các em chiếm lĩnh được tri thức, phát triển trí thông minh, năng lực tư duy, sáng tạo lôgic góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.

Ở tiểu học, các yếu tố hình học chiếm một vị trí rất quan trọng, tuy không đặt thành chương riêng, song nó được phân bố ở hầu hết các tiết toán trong chương trình. Dạy các yếu tố hình học ở Tiểu học phải giúp cho học sinh có những biểu tượng, khái niệm ban đầu chính xác về các yếu tố thường gặp, có khả năng nhận dạng, phân biệt về mặt hình dạng không gian trên cơ sở một số dấu hiệu có thể kiểm nghiệm bằng thực hành trên các đồ vật, mô hình, hình vẽ, Vậy làm thế nào để nâng cao năng lực học các yếu tố hình học cho học sinh, giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động, tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua sự hướng dẫn của giáo viên đó là điều mà tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2 ở trường Tiểu học Ba Đình”.

 

doc 18 trang thuychi01 19415
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2 ở trường Tiểu học Ba Đình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế tri thức của thời đại, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao dân trí, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam”. Bởi vậy Giáo dục luôn được xác định là “Quốc sách hàng đầu” mà “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục đào tạo”. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của nhà trường Tiểu học hiện nay, bên cạnh đó còn xuất phát từ mục tiêu cơ bản của ngành Giáo dục - Đào tạo đã đề ra, phải đào tạo con người mới phát triển toàn diện có đầy đủ tri thức, thông minh, sáng tạo và đức độ để sau này có thể làm chủ tương lai.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở. Trong các môn học ở bậc Tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí rất quan trọng, giúp các em chiếm lĩnh được tri thức, phát triển trí thông minh, năng lực tư duy, sáng tạo lôgic góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Ở tiểu học, các yếu tố hình học chiếm một vị trí rất quan trọng, tuy không đặt thành chương riêng, song nó được phân bố ở hầu hết các tiết toán trong chương trình. Dạy các yếu tố hình học ở Tiểu học phải giúp cho học sinh có những biểu tượng, khái niệm ban đầu chính xác về các yếu tố thường gặp, có khả năng nhận dạng, phân biệt về mặt hình dạng không gian trên cơ sở một số dấu hiệu có thể kiểm nghiệm bằng thực hành trên các đồ vật, mô hình, hình vẽ,  Vậy làm thế nào để nâng cao năng lực học các yếu tố hình học cho học sinh, giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động, tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua sự hướng dẫn của giáo viên đó là điều mà tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2 ở trường Tiểu học Ba Đình”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác dạy học môn Toán lớp 2, nhằm đề xuất những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học của bản thân để nâng cao chất lượng dạy học các yếu tố hình học trong môn Toán cho học sinh lớp 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
 - Nội dung các yếu tố hình học trong chương trình môn Toán lớp 2
 - Các giải pháp để học sinh học tốt các yếu tố hình học trong môn Toán lớp 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
 - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
 - Phương pháp, điều tra thống kê.
 - Phương pháp so sánh, đối chiếu.
 - Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận: 
	Mục tiêu dạy học các yếu tố hình học là dựa trên cơ sở vốn sống thực tế làm cho học sinh làm quen một số hình học thường gặp thể hiện trên đồ vật quen thuộc, từ đó qua trừu tượng văn hoá, chúng ta giúp học sinh nhận biết dạng hình học, từ nhận biết tổng thể tiến đến nhận biết các tính chất của hình để có biểu tượng đầy đủ về hình. 
	Mặt khác hình học được xây dựng có tính đồng tâm, từ lớp 1 các em nhận biết các hình như hình vuông, hình tròn, hình tam giác, thì lớp 2; 3 được nâng lên về số cạnh, về đặc điểm chung, chu vi hình vuông, hình chữ nhật. Lên lớp 4; 5 được xây dựng hoàn chỉnh về dấu hiệu bản chất như : cạnh, góc, cạnh, cạnh, tính chu vi, diện tích, 
	Do vậy việc nắm chắc tính chất của hình và những vấn đề tâm lý có liên quan sẽ làm tăng tính logic trong việc xây dựng yêu cầu dạy học ở từng lớp và chọn phương pháp dạy học cho phù hợp.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng của giáo viên và học sinh trong việc dạy – học các yếu tố hình học ở môn Toán lớp 2:
Trong thực tế, việc dạy các thao tác thực hành hình học còn phụ thuộc vào quan niệm, cách nghĩ, cách làm và năng lực của mỗi GV nên hiệu quả chưa cao. Hiện tượng học sinh vẽ hình không đúng cách và còn lúng túng khi thực hành xếp hình là khá phổ biến. Có không ít giáo viên cho rằng học sinh Tiểu học chỉ cần nắm được công thức tính chu vi, diện tích, thể tích các hình là được, còn việc vẽ hình, xếp hình ở các lớp dưới là việc làm đơn giản, không có gì khó khăn, do đó mà xao nhãng, không chú ý rèn luyện kỹ năng thao tác hình học cho học sinh.
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp, qua việc kiểm tra kiến thức học sinh, tôi thấy:
a.Về phía giáo viên:
	* Ưu điểm : 
	- Giáo viên chủ động lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp. 
	- Phân bố thời gian hợp lý trong tiết dạy, đảm bảo cho học sinh đủ thời gian làm việc tự tìm kiến thức mới thông qua thực hành luyện tập. 
	- Bài soạn được thiết kế theo hướng đổi mới, đúng tinh thần tích cực hoá hoạt động của học sinh. 
	- Giáo viên có nhiều cố gắng khi kết hợp nhiều phương pháp dạy học và thay đổi hình thức học tập của học sinh nhằm nâng cao vai trò của học sinh trong hoạt động nhận thức. 
	- Trong giờ học tổ chức nhiều hoạt động học tập dưới các hình thức khác nhau như : Học cá nhân, học nhóm, thảo luận, trò chơi.
	- Trong các tiết dạy, nhiều giáo viên đầu tư thời gian suy nghĩ để tạo những tình huống dạy học có vấn đề, nhằm thu hút sự chú ý, gây hứng thú trong học Toán của học sinh. 
	- Sử dụng dạy Toán theo các phiếu để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, phát triển năng lực cá nhân và tính độc lập, sáng tạo của học sinh, góp phần đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. 
	- Giáo viên sử dụng nhiều hình thức đánh giá như : Viết, vấn đáp, học sinh tự đánh giá. 
* Nhược điểm :
	- Một số giáo viên chưa đầu tư thời gian để hiểu được dụng ý của sách giáo khoa, chưa nắm bắt được phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới. 
	- Giáo viên còn máy móc phụ thuộc vào các tài liệu có sẵn như sách giáo khoa, sách giáo viên mà chưa chủ động thiết kế bài dạy dẫn đến hạn chế về mặt tiếp thu kiến thức của học sinh. 
	- Việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học và thay đổi hình thức học tập cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế, đặc biệt khi sử dụng phương pháp trực quan thường lạm dụng, khi dạy những bài toán có khả năng suy luận chưa biết tạo ra những tình huống có vấn đề, đặc biệt là khi dạy các yếu tố hình học. 
	- Trong giờ dạy, giáo viên vẫn còn nói nhiều, giảng giải nhiều, xử lý các tình huống xảy ra còn nhiều hạn chế, chưa gây được hứng thú học toán của học sinh.
- Một nguyên nhân nữa cho rằng hạt nhân của môn toán Tiểu học là số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân. Việc dạy các yếu tố hình học chỉ cung cấp cho học sinh các biểu tượng ban đầu.
b. Về phía học sinh:
	* Ưu điểm : 
	- Học sinh bước đầu có thói quen làm việc tự giác, chủ động, không rập khuôn, biết tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. 
	- Học sinh có niềm vui và niềm tin trong học tập, ham thích học toán.
	- Học sinh thực hiện các hoạt động một cách chủ động tích cực theo hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. 
	* Nhược điểm :
	- Do vốn hiểu biết cuộc sống còn nhiều hạn chế, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, sự phát triển tư duy chưa cao nên khi học sinh thực hành về các yếu tố hình học các em còn thấy khó thao tác.	
2.2.2. Kết quả qua khảo sát đầu năm:
Vào đầu năm học 2015 - 2016, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng các yếu tố hình học ở lớp 2A3 trường Tiểu học Ba Đình, kết quả đạt được như sau:
Tổng số học sinh
Nội dung
Nhận biết hình
Vẽ hình
Xếp, ghép hình
SL
%
SL
%
SL
%
40 em
20
50
18
45
17
42,5
Qua kết quả khảo sát trên, tôi thấy việc học các yếu tố hình học của học sinh lớp 2 còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các kĩ năng vẽ đoạn thẳng, đường thẳng, xếp hình, đếm hình. Vì vậy tôi thấy việc dạy các yếu tố hình học cần phải quan tâm, chú trọng tạo tiền đề để các em học tốt nội dung hình học ở các lớp trên.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 2.3.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung “các yếu tố hình học” trong chương trình sách giáo khoa toán lớp 2.
* Nội dung chương trình:
Nội dung dạy học các yếu tố hình học lớp 2 phong phú, đa dạng, được giới thiệu đầy đủ về:
- Đường thẳng, ba điểm thẳng hàng.
- Đường gấp khúc
- Tính độ dài đường gấp khúc.
- Giới thiệu hình tứ giác, hình chữ nhật. Vẽ hình trên giấy ô vuông.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về chu vi của hình học.
Cấu trúc, nội dung các yếu tố hình học trong sách giáo khoa Toán 2 được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác phù hợp sự phát triển theo từng giai đoạn của học sinh.
* Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng
- Học sinh biết nhận dạng và gọi đúng tên hình chữ nhật, hình tứ giác, đường thẳng, đường gấp khúc. Đặc biệt lưu ý học sinh (nhận dạng hình “tổng thể”), chưa yêu cầu nhận ra hình chữ nhật cũng là hình tứ giác, hình vuông cũng là hình chữ nhật.
- Biết thực hành vẽ hình (theo mẫu) trên giấy ô vuông, xếp, ghép các hình đơn giản.
- Học sinh bước đầu làm quen với các thao tác lựa chọn, phân tích, tổng hợp hình, phát triển tư duy, trí tưởng tượng không gian.
* Dạy các yếu tố hình học ở lớp 2
Các yếu tố hình học trong SGK lớp 2 đã bám sát trình độ chuẩn (thể hiện các yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng mà học sinh cần đạt được, phù hợp với mức độ ở lớp 2 như nhận dạng hình tổng thể, các bài thực hành, luyện tập đơn giản, bài tập xếp, ghép hình dễ thực hiện). Với hệ thống các bài tập đa dạng đã gây hứng thú học tập của học sinh.
Ở lớp 2, chưa yêu cầu học sinh nắm được các khái niệm, được những hình học dựa trên các đặc điểm quan hệ các yếu tố của hình (chẳng hạn chưa yêu cầu học sinh biết hình chữ nhật là hình tứ giác có 4 góc vuông, hoặc có 2 cạnh đối diện bằng nhau) chỉ yêu cầu học sinh nhận biết được hình ở dạng “tổng thể” phân biệt được hình này với hình khác và gọi đúng trên hình của nó. Bước đầu vẽ được hình đó bằng cách nối các điểm hoặc vẽ dựa trên các đường kẻ ô vuông (giấy kẻ ô ly).
Một cách khác nữa, khi dạy thì giáo viên cần lưu ý cho học sinh có thói quen đặt câu hỏi “Tại sao” và tự suy nghĩ để trả lời các câu hỏi đó. Trong nhiều tình huống giáo viên còn có thể đặt ra câu hỏi “Tại sao làm như vậy? Có cách nào khác không? Có cách nào hay hơn không?”. Các câu hỏi của giáo viên như “Tại sao”, “Vì sao” đã thôi thúc học sinh phải suy nghĩ tìm tòi giải thích. Đó là chỗ dựa để đưa ra cách làm hoặc cách giải sự lựa chọn trong vốn kiến thức đã học để trả lời.
Khi dạy các yếu tố hình học cho học sinh lớp 2, việc tập cho học sinh có thói quen đặt ra câu hỏi “Tại sao” và tìm cách giải thích làm cho vấn đề được sáng tỏ là nhiệm vụ của người giáo viên. Từ thói quen trong suy nghĩ ta hình thành và rèn luyện thói quen đó trong diễn đạt, trong trình bày.
Ví dụ: Bài chu vi hình tam giác.
4cm
C
A
B
4cm
4cm
Tính chu vi hình tam giác sau:
Cho học sinh nhắc lại cách tính chu vi của hình tam giác.
Học sinh có thể tính chu vi tam giác bằng các cách:
4 + 4 +4 = 12 (cm)
 Hoặc : 4 x 3 = 12 (cm)
Cho học sinh so sánh các kết quả và khẳng định là làm đúng.
Lúc đó giáo viên hỏi: Tại sao con lại lấy 4 x 3 để tính chu vi hình tam giác (vì 3 cạnh hình tam giác có số đo bằng nhau, bằng 4 cm).
- So sánh 2 cách làm trên con thấy cách nào làm nhanh hơn? (cách 2).
2.3.2. Các dạng cơ bản của hệ thống các bài tập thực hành về yếu tố hình học trong Toán 2.
Gồm các dạng sau:
Dạng 1: Về “nhận biết hình”:
a. Về “đoạn thẳng, đường thẳng”.
Vấn đề “đoạn thẳng, đường thẳng” được giới thiệu ở Tiểu học có thể có nhiều cách khác nhau. Trong sách toán 2, khái niệm “đường thẳng” được giới thiệu bắt đầu từ “đoạn thẳng” (đã được học ở lớp 1) như sau:
- Cho điểm A và điểm B, lấy thước và bút nối hai điểm đó ta được đoạn thẳng AB.
A
B
- Kéo dài đoạn thẳng AB về hai phía, ta được đường thẳng AB
A
B
- Lưu ý: Khái niệm đường thẳng không định nghĩa được, học sinh làm quen với “biểu tượng” về đường thẳng thông qua hoạt động thực hành: Vẽ đường thẳng qua 2 điểm, vẽ đường thẳng qua 1 điểm.
b. Nhận biết giao điểm của hai đoạn thẳng:
Ví dụ: (bài 4 trang 49)
A
B
C
D
Đoạn thẳng AB cắt đoạn thẳng CD tại điểm nào?
- Khi chữa bài giáo viên cho học sinh tập diễn đạt kết quả bài làm. Chẳng hạn học sinh nêu lại “Đoạn thẳng AB cắt đoạn thẳng CD tại điểm O”.
Giáo viên hỏi: Ai có cách trả lời khác? Học sinh suy nghĩ trả lời: “Hai đoạn thẳng AB và CD cắt nhau tại điểm O”. Hoặc “O là điểm cắt nhau của đoạn thẳng AB và CD”.
c. Nhận biết 3 điểm thẳng hàng:
Ví dụ: (Bài 2 trang 74)
Nêu tên 3 điểm thẳng hàng (dùng thước thẳng để kiểm tra):
O
M
N
P
Q
D
O
B
C
A
a) 
b)
- Giáo viên giới thiệu về ba điểm thẳng hàng (ba điểm phải cùng nằm trên một đường thẳng).
- Học sinh phải dùng thước kẻ kiểm tra xem có các bộ ba điểm nào thẳng hàng rồi chữa.
Ví dụ như:
a. Ba điểm O, M, N thẳng hàng; ba điểm O, P, Q thẳng hàng.
b. Ba điểm B, O, D thẳng hàng; ba điểm A, O, C thẳng hàng.
d. Nhận biết hình chữ nhật, hình tứ giác
Ở lớp 2, chưa yêu cầu học sinh nắm được khái niệm, định nghĩa hình học dựa trên các đặc điểm của hình (chẳng hạn chưa yêu cầu học sinh biết hình chữ nhật là tứ giác có 4 góc vuông, hoặc có 2 cạnh đối diện bằng nhau), chỉ yêu cầu học sinh phân biệt được hình ở dạng “tổng thể”, phân biệt được hình này với hình khác và gọi đúng tên hình của nó. Bước đầu vẽ được hình đó bằng cách nối các điểm hoặc vẽ dựa trên các đường kẻ ô vuông (giấy kẻ ô ly).
Ví dụ dạy học bài “Hình chữ nhật” theo yêu cầu trên, có thể như sau:
- Giới thiệu hình chữ nhật (học sinh được quan sát vật chất có dạng hình chữ nhật, là các miếng bìa hoặc nhựa trong hộp đồ dùng học tập, để nhận biết dạng tổng thể “đây là hình chữ nhật”).
- Vẽ và ghi tên hình chữ nhật (nối 4 điểm trên giấy kẻ ô vuông để được hình chữ nhật, chẳng hạn hình chữ nhật ABCD, hình chữ nhật MNPQ).
A
B
D
C
N
M
Q
P
- NhËn biÕt ®­îc h×nh ch÷ nhËt trong tËp hîp mét sè h×nh (cã c¶ h×nh kh«ng ph¶i lµ h×nh ch÷ nhËt), ch¼ng h¹n:
T« mµu (hoÆc ®¸nh dÊu x ) vµo h×nh ch÷ nhËt cã trong mçi h×nh sau:
- Thực hành củng cố nhận biêt hình chữ nhật:
Ví dụ: (Bài 1 trang 85)
Mỗi hình dưới đây là hình gì?
a)
d)
b)
e)
c)
g)
e. Nhận biết đường gấp khúc:
Giáo viên cho học sinh quan sát đường gấp khúc ABCD.
2cm
4 m
3 m
A
C
D
 B
Giáo viên giới thiệu:
Đây là đường gấp khúc ABCD (chỉ vào hình vẽ). Học sinh lần lượt nhắc lại: “Đường gấp khúc ABCD”.
Giáo viên hỏi: Đường gấp khúc này gồm mấy đoạn?
 Học sinh nêu: Gồm 3 đoạn thẳng AB, BC, CD (B là điểm chung của hai đoạn thẳng AB và BC, C là điểm chung của hai đoạn thẳng BC và CD).
Học sinh được thực hành tiếp bài tập 3 (trang 104).
Ghi tên các đường gấp khúc có trong hình vẽ sau, biết:
a) Đường gấp khúc đó gồm 3 đoạn thẳng.
b) Đường gấp khúc đó gồm 2 đoạn thẳng.
B
C
A
D
Yêu cầu cầu sinh ghi tên rồi đọc tên đường gấp khúc
Giáo viên cho học sinh dùng bút chì màu và phân biệt các đường gấp khúc có đoạn thẳng chung:
a. Đường gấp khúc gồm 3 đoạn thẳng là: ABCD
b. Đường gấp khúc gồm 2 đoạn thẳng là: ABC và BCD.
Dạng 2: Về “Vẽ hình”
Ở lớp 1,2,3 học sinh được làm quen với hoạt động vẽ hình đơn giản theo các hình thức sau:
a. Vẽ hình không yêu cầu có số đo các kích thước.
Vẽ hình trên giấy ô vuông
Ví dụ: (bài 1- trang 23).
Dùng thước và bút nối các điểm để có:
a) Hình chữ nhật 
 A B 
C
 E D
 b) Hình tứ giác.
 M N
 Q P
Yêu cầu bước đầu học sinh vẽ được hình chữ nhật, hình tứ giác (nối các điểm có sẵn trên giấy kẻ ô ly).
b. Vẽ hình theo mẫu:
Ví dụ: (bài 4 - trang 59).
Vẽ hình theo mẫu.
Mẫu
- Giáo viên cho học sinh nhìn kỹ mẫu rồi lần lượt chấm từng điểm vào vở:
Dùng thước kẻ và bút nối các điểm để có hình vuông.
c. Vẽ đường thẳng.
Ví dụ: (bài 4 - trang 74)
Vẽ đường thẳng.
a) Đi qua hai điểm M, N
•
M
•
N
•
O
b) Đi qua điểm O
c) Đi qua hai trong ba điểm A, B, C.
•
B
A •
•
C 
Sau khi giáo viên đã dạy bài đường thẳng và cách vẽ bài này là thực hành.
Phần (a). Vẽ đường thẳng đi qua 2 điểm M, N.
Học sinh nêu cách vẽ:
Đặt thước sao cho 2 điểm M và N đều đều nằm trên mép thước. Kẻ đường 
thẳng đi qua 2 điểm M, N.
Giáo viên : Nếu đề bài yêu cầu ta vẽ đoạn thẳng MN thì ta vẽ như thế nào?
Học sinh : Ta chỉ nối đoạn thẳng từ điểm M tới điểm N.
Giáo viên : Vẽ đoạn thẳng MN khác gì so với đường thẳng MN?
Học sinh : Khi vẽ đoạn thẳng ta chỉ cần nối điểm M với điểm N, còn khi vẽ đường thẳng ta phải kéo dài đoạn thẳng MN về 2 phía M và N.
Phần (b). Vẽ đường thẳng đi qua điểm O.
Giáo viên cho học sinh nêu cách vẽ: Đặt thước sao cho mép thước đi qua O, sau đó kẻ 1 đường thẳng theo mép thước được đường thẳng qua O.
Học sinh tự vẽ ® vẽ được nhiều đường thẳng đi qua điểm O.
Giáo viên kết luận	: Qua 1 điểm có “rất nhiều ” đường thẳng.
Phần (c). Vẽ đường thẳng đi qua 2 trong 3 điểm A, B, C.
Học sinh	: Thực hiện thao tác nối.
Giáo viên yêu cầu kể tên các đoạn thẳng có trong hình.
Học sinh	: Đoạn AB, BC, CA.
Giáo viên hỏi: Mỗi đoạn thẳng đi qua mấy điểm ? (đi qua 2 điểm).
Giáo viên cho học sinh thực hành vẽ đường thẳng.
Học sinh nêu cách vẽ: Kéo dài đoạn thẳng về 2 phía để có các đường thẳng.
Giáo viên hỏi : Ta có mấy đường thẳng? Đó là những đường thẳng nào?
Học sinh : Ta có 3 đường thẳng đó là: đường thẳng AB, đường thẳng BC, đường thẳng CA.
b. Vẽ thêm đường thẳng để được hình mới:
Ví dụ: (bài 3 - trang 23).
Kẻ thêm một đoạn thẳng trong hình sau để được:
a) Một hình chữ nhật và một hình tam giác
b) Ba hình tứ giác
* Giáo viên: Kẻ thêm nghĩa là vẽ thêm 1 đoạn nữa vào trong hình:
- Giáo viên vẽ hình lên bảng và cho học sinh đặt tên cho hình:
 A B
 C
 E D
Giáo viên hỏi: Con vẽ thế nào?
Học sinh: Con nối A với D.
A
B
C
E
D
Giáo viên cho học sinh đọc tên hình:
Hình chữ nhật ABCD
Hình tam giác BCD
- Học sinh đặt tên cho hình:
A
D
B
C
Cho học sinh tự kẻ:
A
D
B
C
E
G
A
D
B
C
G
E
Hoặc:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc tên các hình vẽ được trong cả 2 cách vẽ.
Học sinh đọc tên hình: ABGE, EGCD, ABCD và AEGD, EBCG, ABCD.
* Khi dạy ở học sinh cách vẽ hình, dựng hình tôi thường tuân thủ theo các bước sau:
a. Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng thước kẻ, bút chì, bút mực để vẽ hình. Cần sử dụng hợp lý chức năng của mỗi dụng cụ, thước thẳng có vạch chia dùng để đo độ dài đoạn thẳng, vẽ đoạn thẳng (đường thẳng), thước thẳng còn dùng để kiểm tra sự thẳng hàng của các điểm.
b. Học sinh phải được hướng dẫn và được luyện tập kỹ năng vẽ hình, dựng hình theo quy trình hợp lý thể hiện được những đặc điểm của hình phải vẽ.
c. Hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác về hình dạng và đặc điểm, các nét vẽ phải mảnh, không nhoè, không tẩy xoá.
Dạng 3: Về xếp, ghép hình:
Ví dụ: (Bài 5 - trang 178).
Xếp 4 hình tam giác thành hình mũi tên:
- Yêu cầu của bài “xếp, ghép hình” ở lớp 2 là: Từ 4 hình tam giác đã cho, học sinh xếp, ghép được thành hình mới theo yêu cầu đề bài (chẳng hạn ở ví dụ trên là xếp thành “hình mũi tên”.
- Cách thực hiện:
Mỗi học sinh cần có một bộ hình tam giác để xếp hình (bộ xếp hình này có trong hộp đồ dùng học toán lớp 2, hoặc học sinh có thể tự làm bằng cách từ một hình vuông cắt theo 2 đường chéo để được 4 hình tam giác).
Học sinh lựa chọn vị trí thích hợp để xếp, ghép 4 hình tam giác thành hình mới (chẳng hạn như hình mũi tên).
- Lưu ý:
Loại toán “xếp, ghép hình” chỉ có ý nghĩa khi mỗi học sinh phải được tự xếp, ghép hình (các em có thể xếp, ghép nhanh chậm khác nhau) nhưng kết quả đạt được là “sản phẩm” do mỗi em được “tự thiết kế và thi công” và do đó sẽ gây hứng thú học tập cho mỗi em.
- Điều cơ bản là khuyến khích học sinh tìm được các cách khác nhau đó. Qua việc “xếp, ghép” này các em được phát triển tư duy, trí tưởng tượng không gian và sự khéo tay, kiên trì, sáng tạo.
Dạng 4: Về tính độ dài dường gấp khúc hoặc chu vi của hình:
a. Tính độ dài đường gấp khúc:
Ví dụ: (Bài 5 - trang 105).
2m
2m
2m
3cm
3cm
2m
 3cm
2m
Học sinh giải: 
a) Độ dài đường gấp khúc là:
3 + 3 + 3 = 9 (cm)
Giáo viên hỏi: Con làm thế nào ra 9 cm?
Học sinh 1: Đường gấp khúc này gồm 3 đoạn thẳng, mỗi đoạn thẳng đều là 3 cm nên con tính tổng độ dài 3 đoạn thẳng tạo lên mỗi đường gấp khúc.
Giáo viên hỏi: Có bạn nào làm bài khác bạn không?
Học sinh 2: Con lấy 3 x 3 = 9 (cm)
Cho 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_cac_yeu_to_hinh.doc