SKKN Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu

SKKN Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu

Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học sinh một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn từ tiếng Việt. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng như trong giao tiếp. Ngoài ra, vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết.

Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chưa chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm các từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo tính thường trực của từ nhằm nâng cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh khi học các môn học nói riêng và trong cuộc sống nói chung. .

Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học sinh lớp 2 (là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ chút nào. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa chú trọng việc làm giàu vốn từ cho học sinh. Mặt khác, một số giáo viên chưa có sự sáng tạo về phương pháp dạy học luyện từ và câu cũng như là vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học hiện đại để làm giàu vốn từ cho các em. Còn về phía học sinh, vốn từ của các em còn rất ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều làm giảm khả năng tìm từ đúng, đặt câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói. Dẫn đến các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học vào thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh lớp 2 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và câu ở lớp 2 chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành kiến thức cho các em. Để làm giàu vốn từ cho các em như thế nào cho có hiệu quả? Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn, nghiên cứu và viết giải pháp hữu ích “ Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu” này.

 

doc 20 trang thuychi01 17434
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
 1. Mở đầu
1.1 Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học sinh một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn từ tiếng Việt. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng như trong giao tiếp. Ngoài ra, vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chưa chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm các từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo tính thường trực của từ nhằm nâng cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh khi học các môn học nói riêng và trong cuộc sống nói chung. .
Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học sinh lớp 2 (là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ chút nào. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa chú trọng việc làm giàu vốn từ cho học sinh. Mặt khác, một số giáo viên chưa có sự sáng tạo về phương pháp dạy học luyện từ và câu cũng như là vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học hiện đại để làm giàu vốn từ cho các em. Còn về phía học sinh, vốn từ của các em còn rất ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều làm giảm khả năng tìm từ đúng, đặt câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói. Dẫn đến các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học vào thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh lớp 2 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và câu ở lớp 2 chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành kiến thức cho các em. Để làm giàu vốn từ cho các em như thế nào cho có hiệu quả? Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn, nghiên cứu và viết giải pháp hữu ích “ Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu” này.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho học sinh  kỹ năng chính:
Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh
 Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: 
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn ngôn ngữ của các em càng phong phú; việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp. 
Thông qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của nhân tố từ ngữ trong việc sử dụng tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 còn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ. Từ đó, học sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen dùng từ, nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học tập, giao tiếp và thích học Tiếng Việt. Do đó, người giáo viên dạy lớp 2 (hay dạy bậc Tiểu học) cần phải hội đủ các yếu tố như: Có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung cũng như mục tiêu của từng bài dạy; có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, về ý đồ của sách giáo khoa và về cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện ở sách giáo khoa; có năng lực giảng dạy nhất định, biết xử lý và linh hoạt sáng tạo trong quá trình dạy – học. Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành công vốn từ trong học tập và giao tiếp.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 
Thuận lợi:
 - Nhà trường:
+ Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Luyện Từ & Câu
ở lớp 2 đã có sẵn ở thư viên: Tranh các chim, loài cá, thú
 - Học sinh:
+ Các em học sinh có đủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.
+ Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình.
b. Khó khăn:
- Giáo viên:
+ Phân môn Luyện Từ & Câu là phân môn mà học sinh lớp 2 vừa được làm quen, nên giáo viên gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với các em.
+ Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai.
+ Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn nhiều lúng túng.
- Học sinh:
+ Quan sát học sinh khi học phân môn Luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ hoặc không tìm được từ, chỉ khi cô giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu.
+ Qua tiết học phân môn Tập làm văn, tôi thường quan sát các em trong việc trả lời câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3 - 5 câu. Tôi thấy các em đa số chưa biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn số học sinh trong lớp biết dùng một số mẫu câu đơn giản.
Đoạn văn kể về ông (hoặc bà) của em.
+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học Luyện từ và câu. 
Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của lớp 2A (lớp thực nghiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng)
Lớp
Tổng số HS
HTT
HT
CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A
34
5
14,5%
15
44,9 %
14
40,6%
2B
34
6
 17,4%
16
52,2%
12
34,8%
 Từ thực trạng trên tôi thấy nếu không có biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh thì chất lượng dạy học môn Tiếng Việt sẽ không cao. Trong năm học trước, khi đánh giá chất lượng bài thi các giáo viên đều có chung nhận định: Vốn từ của học sinh đang còn nghèo nàn, nhiều em tìm từ không đúng yêu cầu và có rất nhiều em không tìm được từ. Những hạn chế trên một phần là do giáo viên chưa chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong quá trình dạy giáo viên ít tạo điều kiện cho học sinh được hoạt động nhiều với từ nên khả năng thường trực từ ở học sinh và sử dụng khi cần thiết chưa cao. Có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung cả lớp, có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức trò chơi học tập tập trung đối tượng học sinh năng khiều. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân loại đối tượng học sinh để dạy học cho phù hợp.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và vận dụng: “Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu”
 2.3 Một số biện pháp thực hiện.
 Biện pháp 1: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi, thảo luận, chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy rất ít giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong quá trình dạy học làm giàu vốn từ đặc biệt là trong nhiệm vụ mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp cá nhân làm việc độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài tập mở rộng vốn từ. Số lượng từ ngữ học sinh nắm được trong giờ học không cao và không bền vững. Khi huy động vốn từ theo chủ đề, mỗi học sinh chỉ huy động được khoảng 1, 2 từ, nhiều nhất là 4, 5 từ. Thậm chí có học sinh không huy động được một từ ngữ nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên ít vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào trong giờ học, không tạo được điều kiện để học sinh có thể hoạt động nhiều hơn với từ, lặp đi, lặp lại các thao tác với từ để có thể nhớ từ một cách bền vững. Hơn nữa, khả năng giao tiếp của học sinh hiện nay còn yếu, học sinh diễn đạt chưa rõ ràng, mạch lạc vì trong quá trình học, học sinh không được thao tác nhiều với từ. Vì thế, trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài dạy đạt hiệu quả, giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị ở nhà
Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập giải nghĩa từ đối với những từ học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức của lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu của bài tập (đối với học sinh yếu, kém, trung bình) tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được hoạt động hết khả năng của mình.
Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh ghi kết quả theo thảo luận nhóm
Bước 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
GV chia nhóm học sinh
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia nhóm theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ nắm vốn từ của học sinh. Mỗi cách chia nhóm đều có ưu và nhược điểm nhất định, khi lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để tránh nhàm chán cho học sinh.
Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập (hoặc phiếu giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 1, Tuần 4 – TV2, tập 1 – trang 35, Mở rộng vốn từ: Từ chỉ sự vật, GV sử dụng phiếu thảo luận: 
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói các từ theo mẫu trong bảng sau rồi ghi vào bảng trong thời gian 2 phút:
Chỉ người
Chỉ đồ vật
 Chỉ con vật
Chỉ cây cối
M: học sinh
.
M: ghế
..
M: Chim sẻ
..
M: Xoài
..
Ví dụ 2: Ở bài tập 1, Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ, Tuần 30, TV2 – Tập 2 – Trang 104, ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, trong thời gian 2 phút, tìm các từ: 
a. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ..
.
b. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ..
- Học sinh thảo luận nhóm
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo viên quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm đều thảo luận sôi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả.
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các nhóm khác nhận xét, bổ xung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần nhớ sau khi thảo luận nhóm và tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm, những cá nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ năng hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh được học từ bạn và tất cả các em đều được tham gia hoạt động giao tiếp. Tôi đã vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm giàu vốn từ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Thảo luận nhóm 4, bài: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ. 
TV2 – Tập 2, trang 104
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trò chơi trong quá trình học tập làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm giàu vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết học thì hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng trò chơi học tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi không khí trong lớp học, tạo ra sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt tình của các bạn trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú hơn với việc học từ ngữ trong các bài tập mở rộng vốn từ, làm giảm bớt đi sự khô khan của bài học, học sinh tiếp thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại, quản lý vốn từ đúng, sử dụng từ chính xác, linh hoạt.
Thứ nhất: Trò chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ 1: Tìm những từ chỉ sự vật( người, đồ vật, con vật, cây cối,..) được vẽ dưới đây. (bài tập 1 tuần 3, TV2 – Tập 1, trang 26)
Ví dụ 2: Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ chỉ mỗ hoạt động đó. (Bài tập 2 tuần 7, trang 59, TV2 –Tập 1)
Ví dụ 3: Hãy nêu tên các con vật có trong hình (Bài tập 3 tuần 16 trang 134, TV 2, tập 1).
a. Đối với dạng bài này, giáo viên chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ (bìa giấy) ghi tên các đồ vật (tranh ảnh)
- Giáo viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
b. Cách thực hiện:
- Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh (mỗi nhóm từ 2 đến 4 người chơi - Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2 nhóm. Mỗi học sinh (hoặc mỗi nhóm) tham gia trò chơi được phát một bộ thẻ từ ghi tên các đồ vật (tranh ảnh). Học sinh (hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh nhất các tên (từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
Thứ hai: Trò chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề
a. Mục tiêu
- Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh
b. Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy nháp
c. Cách tiến hành
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề (ví dụ: đồ dùng học tập là những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những con vật nuôi trong nhà...), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình cảm gia đình..)
+ Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để đọc lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
Thứ ba: Trò chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trò chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu vốn từ ngữ của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập tuần 2, TV 2, tập 1.
a. Chuẩn bị
- Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn (xanh, đỏ, vàng...), tương tự  quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12 quân bài đã ghi sẵn các từ.
- 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái (trọng tài) khác màu với mỗi bộ quân bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ được ghi trên quân bài của người chơi.
- Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài trên tay.
b. Cách tiến hành
Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi: mục đích của trò chơi là học sinh thi tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2-4 học sinh. Quản trò là giáo viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:
- Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau (10, 12 quân)
- Trọng tài lật 1 quân bài của mình (có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ đồng nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
- Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh quân bài đó đã "ăn", nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được "ăn ". Trường hợp 2 - 3 người cũng ra quân bài đúng thì cũng được “ăn".
- Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được "ăn" nhiều nhất sẽ thắng cuộc. Như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
Bước 4: giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ đúng và chính xác nhất, rồi tuyên dương nhóm tìm được nhiều từ đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ bài để cầm cái: học tập - học hành, siêng năng - chăm chỉ, vui vẻ - phấn khởi, giảng dạy - dạy dỗ, bài tập - bài vở, chăm chú - chú ý, lễ phép - lễ độ, thông minh - sáng dạ, vâng lời - nghe lời, kiên nhẫn - kiên trì....
Thứ tư: Trò chơi tìm nhanh từ trái nghĩa
Mục tiêu: Học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh luyện trí thông minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16: Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, nhanh, ngoan, trắng, cao, khỏe ( TV2, tập 1, trang 133)
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt - xấu, ngoan - hư, nhanh - chậm, trắng - đen, cao -  thấp, khỏe - yếu, đẹp - xấu, ngắn - dài...
Thứ năm: Trò chơi thi đoán từ
a. Mục tiêu: Trò chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán nhanh một từ khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố về nghĩa từ  và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
b. Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
- Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1, 2, 3...làm các bộ phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ (ghi theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả.
- Giáo viên cùng 2, 3 học sinh làm trọng tài, ghi số sao của các nhóm tham gia chơi.
c. Cách tiến hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi (mỗi nhóm 4, 5 học sinh), nêu yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau để giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấy của nhóm.(nhớ ghi đúng từ  theo số thứ tự trên phiếu).
- Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá (mỗi từ tìm đúng được tính 2 sao)
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tôi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải như sau:
1. Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.(là gì?)
2. Nơi em đến học hàng ngày. (là gì?)
3. Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên.(là gì?)
4. Cột gì cao trước sân trường
 Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
 Đầu tuần buổi sáng thứ hai
 Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào?    
 	 ( là gì?)
Thông qua trò chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_lam_giau_von_tu_cho_hoc_sinh_lop_2_tho.doc