SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn
Toán học là một lĩnh vực rất phong phú, đa dạng; vừa cụ thể và vừa trừu tượng; là một kho tàng tri thức vô tận. Đặc biệt chương trình Toán tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh, góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn Toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm”. Người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiến lĩnh kiến thức của học sinh. Với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng, để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng mình dạy.
Trong chương trình Toán ở tiểu học, giải toán có lời văn có vị trí rất quan trọng. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1, đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính. Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số. Vì vậy, đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích luỹ nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp.
Qua kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi rút ra : “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói
PHỤ LỤC STT Nội dung Trang 1 Phụ lục 1 2 A. Phần mở đầu I. Lí do chọn đề tài 2 3 II. Mục đích nghiên cứu. III. Đối tượng nghiên cứu. IV. Phương pháp nghiên cứu. 2 3 4 B. Nội dung I. Cơ sở lí luận II. Cơ sở thực tiễn 4 5 III. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến. 1. Thực trạng về kinh nghiệm giải toán có lời văn ở lớp2. 5 2. Kết quả của thực trạng ban đầu. 8 7 III. Các biện pháp cụ thể. 1. Họp phụ huynh - Thống nhất biện pháp giáo dục 2. Chuẩn bị cho việc giải toán. 8 8 3. Vận dụng qua các tiết dạy. 10 9 4. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập. 13 10 IV. Hiệu quả của sáng kiến. 14 11 C. Kết luận - Kiến nghị 15 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Toán học là một lĩnh vực rất phong phú, đa dạng; vừa cụ thể và vừa trừu tượng; là một kho tàng tri thức vô tận. Đặc biệt chương trình Toán tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh, góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn Toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm”. Người thầy là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiến lĩnh kiến thức của học sinh. Với các môn học nói chung và môn Toán nói riêng, để vận dụng tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, phải dày công nghiên cứu tìm ra giải pháp thích hợp với đối tượng mình dạy. Trong chương trình Toán ở tiểu học, giải toán có lời văn có vị trí rất quan trọng. Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp 1, đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính. Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số. Vì vậy, đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích luỹ nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp. Qua kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi rút ra : “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh lớp 2 khi giải toán có lời văn. - Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy dạng toán có lời văn cho học sinh lớp 2. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Học sinh lớp 2A năm học 2014 - 2015. Học sinh lớp 2A năm học 2015 - 2016. Học sinh lớp 2C năm học 2016 - 2017. - Các tổ chuyên môn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu về lý luận. - Phương pháp quan sát, thực nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra, tổng hợp. - Phương pháp so sánh. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Giải toán luôn là hoạt động trí tuệ, sáng tạo, rất hấp dẫn với nhiều học sinh và thầy cô giáo. Với mong muốn sao cho giờ học Toán diễn ra nhẹ nhàng và mỗi học sinh phát huy được hết năng lực học tập của mình cùng với suy nghĩ dạy học môn Toán ở lớp 2 không chỉ trang bị cho học sinh vốn tri thức toán học trong chương trình mà còn giúp học sinh nắm được chìa khoá để đi tới nhận thức, rèn luyện con người và dạy học sinh biết cách học bởi vì giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lôgíc. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc. Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số. Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề. Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?... Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải. Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi hoàn toàn về phía học sinh mà một phần là do các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 1. Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2. a. Thực trạng: Trong năm học vừa qua, dựa vào quá trình dạy học và bài làm của học sinh. Nhìn chung kết quả giải toán có lời văn đạt tỉ lệ chưa cao, lí do là các bài toán có lời văn các em chưa hiểu, chưa nắm vững cách tiến hành thực hiện giải toán nên các em có thái độ lơ là. Đặc biệt các em còn lúng túng ở câu lời giải không biết đặt như thế nào cho đúng, không xác định được yêu cầu của đề bài toán hỏi gì . Chính vì vậy, chất lượng học tập của các em còn hạn chế nên cần có biện pháp khắc phục. * Thuận lợi: - Các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc học đặc biệt là việc giải toán của con em mình. - Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và học sinh không ngừng cải tiến, nâng cao phương pháp dạy học. - Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ. - Giáo viên được tham dự những chuyên đề về cách dạy các dạng toán ở lớp 2 để học hỏi, trau rồi kiến thức, kinh nghiệm. - Về học sinh: Nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. Trong giải toán nhiều học sinh đã hiểu được yêu cầu đề toán. * Khó khăn: - Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao. - Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc, do ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu. - Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. - Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế. - Về giáo viên: Một số giáo viên chưa cẩn thận khi sửa lỗi trong bài làm của học sinh. Khi dạy các bài toán giải có đơn vị đo lường, học sinh thường trình bày sai, nhưng giáo viên không sửa. Chẳng hạn bài 3 tiết 92. Mỗi can đựng được 3 lít dầu. Hỏi có 5 can như thế đựng được bao nhiêu lít dầu. Học sinh trình bày: Giải: Số l dầu đựng trong can là: 3 x 5 = 15 (l) Đáp số: 15 (l). Nhiều giáo viên có thói quen không cho học sinh tìm hiểu kỹ đề nên thường đi đến kết quả sai. Các bài toán giải bằng một phép tính nhân hoặc chia, chưa khái quát thành dạng cơ bản ở các tiết hình thành bảng nhân, các bài toán có lời văn thường không có hình vẽ cụ thể nên giáo viên khó hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề. Ví dụ: Khi dạy tiết 91 bài “Bảng nhân 3” có bài 3 “Mỗi nhóm có 3 học sinh, có 10 nhóm như vậy. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh”. Giáo viên khó hiển thị cho học sinh của 10 nhóm, trong khi ở các tiết luyện tập, các bài toán thường được thể hiện bằng hình vẽ cụ thể. Ví dụ: Tiết 92 bài 4. Mỗi túi có 3kg gạo. Hỏi 8 túi như thế có bao nhiêu kg gạo? 3kg 3kg 3kg 3kg Bài giải 3kg 3kg 3kg 3kg - Với nội dung sách giáo khoa đòi hỏi phải sử dụng nhiều đồ dùng trực quan. Song một số giáo viên ít sử dụng đồ dùng trực quan. b. Thực trạng của lớp: * Thuận lợi: Do đặc điểm của học sinh đầu cấp nhanh nhớ nhưng chóng quên nên khi tập trung vào một dạng thì các em dễ khắc sâu và rèn được kỹ năng tính toán. Các bài toán có lời văn ở lớp 2 thường thể hiện một cách tường minh, các tình huống trong đề gần gũi với học sinh. Vì vậy với vốn ngôn ngữ còn ít của mình các em có thể đọc và hiểu đề một cách dễ dàng. Đặc biệt với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm hiện nay giúp các em có điều kiện hoạt động và chủ động nắm kiến thức. Thời lượng dành cho luyện tập thực hành nhiều nên các em được tham gia giải quyết nhiều tình huống khác nhau và bộc lộ khả năng của mình. Các bài toán được trình bày với nhiều hình thức khác nhau, giúp các em hứng thú học tập phát huy được tính sáng tạo của mình. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi nói trên học sinh vẫn gặp một số khó khăn khi học phần này. + Về tìm hiểu đề: Như chúng ta đã biết, muốn giải được bài toán được bài toán có lời văn học sinh phải đọc kỹ đề bài, hiểu được cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, song do trình độ ngôn ngữ của các em còn kém, một số học sinh lúng túng khi tìm hiểu đề. Mặt khác nội dung các bài toán thường nêu lên một tình huống quen thuộc, gần gũi với học sinh. Trong đó các dữ kiện thường là các đại lượng (danh số), khi tìm hiểu đề các em thường bị phân tán vào nội dung cụ thể của đại lượng hơn là các số cần thiết cho việc diễn tả điều kiện của các bài toán theo yêu cầu của đề. Ví dụ ở bài 3, trang 45: “ Một lớp học có 35 học sinh, trong đó có 20 học sinh trai. Hỏi lớp đó có bao nhiêu học sinh gái?”. Hoặc bài 4, trang 64: “Một cửa hàng đồ chơi, có 84 ô tô và máy bay, trong đó có 45 ô tô. Hỏi cửa hàng đó có bao nhiêu máy bay?”. Đặc điểm tư duy lứa tuổi của các em là tư duy cụ thể nên tiếp xúc với các bài giải bằng một phép tính nhân hoặc chia thường gặp khó khăn trong suy luận.Bên cạnh một số khó khăn khi tìm hiểu đề, các em còn gặp một số khó khăn trong quá trình giải. Nắm vững nội dung nhất là các yếu tố cơ bản của bài toán là yêu cầu đầu tiên nhưng chưa đủ, nếu học sinh chưa có hứng thú và quyết tâm giải nó. Để giải đúng bài toán còn đòi hỏi các em tìm ra phương pháp giải là một hoạt động tư duy hết sức phức tạp, vừa đòi hỏi kinh nghiệm thực hành, sự linh hoạt sáng tạo. Song ở lứa tuổi các em thường có sự nhầm lẫn yếu tố không thuộc bản chất. Các em thường nhầm lẫn phương pháp giải giữa dạng này và dạng khác. Ví dụ: “Mẹ mua con lợn nặng 28kg về nuôi. Sau một tháng nó tăng thêm 13kg, hỏi sau một tháng con lợn nặng bao nhiều kg?”. Đây là bài toán về ít hơn một số đơn vị nhưng các em lại nhầm là bài toán tìm số trừ chưa biết nên có phép tính giải. Ngoài ra khi trình bày bài giải các em diễn đạt câu, lời văn thường không rõ ràng hoặc mắc các lỗi ghi chữ viết tắt các đơn vị đo đại lượng. Ví dụ: bài 4 trang 129: “Có một số lít dầu đựng trong 6 can, mỗi can 3 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu lít dầu?”. Học sinh viết câu lời giải “có số lít dầu là:” * Đối với học sinh cá biệt: Trong lớp học thường có tới 4 loại đối tượng học sinh với mức hoàn thành bài khác nhau. Các đối tượng này học cùng một chương trình với những yêu cầu đặt ra theo mục tiêu đào tạo. Phần giải toán có lời văn chưa đáp ứng được đối tượng học sinh có năng khiếu bởi chưa có bài toán giải bằng nhiều cách hoặc bằng nhiều phép tính. Đối với học sinh yếu kém do tư duy thiếu linh hoạt, sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng phát triển chậm hay thiếu tự tin nên trong giải toán đạt được kết quả là một khó khăn. - Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy: + Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. + Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp. + Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều, phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán. 2. Kết quả của thực trạng ban đầu các năm. Tôi đã khảo sát kĩ năng giải toán của học sinh lớp tôi dạy vào đầu năm của 3 năm học gần đây thu được kết quả như sau: Năm học Lớp Sĩ số Giải toán có lời văn thành thạo Kĩ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 2014-2015 2 A 28 5 17,8 17 60,8 6 21.4 2015-2016 2 A 26 5 19,2 16 61,6 5 19,2 2016-2017 2C 28 8 28,5 17 60,8 3 10,7 Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. IV. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Qua việc tiếp thu chuyên đề và trên cơ sở điều tra nắm bắt đối tượng học sinh của lớp, bản thân tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy. Tôi đã đề ra và thực hiện các biện pháp, phương pháp cụ thể sau nhằm nâng cao chất lượng và khả năng dạy học toán có lời văn cho học sinh. 1. Họp phụ huynh - Thống nhất biện pháp giáo dục. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học là nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên, các em học sinh lớp 2 chưa tự giác học tập, còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Chính vì vậy, giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng để nâng cao kết quả học tập cho các em. Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều em chưa cao. Để giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà. Một số học sinh thiếu Sách giáo khoa và Vở bài tập, tôi gặp gỡ trao đổi với phụ huynh, động viên họ tạo điều kiện cho con em học tập; tôi trực tiếp kêu gọi những em học sinh cũ ( lớp 2 năm ngoái) ủng hộ số sách cũ của các em cho nhà trường để nhà trường giúp đỡ những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. 2. Chuẩn bị cho việc giải toán. Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu người giáo viên gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ phong phú; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra. Những tuần đầu lớp 2 khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, đặt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết toán có bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng. Ví dụ1 : Bài 2 trang 13 SGK Toán 2. “Nhà bạn Mai nuôi 22 con gà, nhà bạn Lan nuôi 18 con gà. Hỏi cả hai nhà nuôi được tất cả mấy con gà?”. - Tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề, tập tóm tắt bài toán: Mai nuôi : 22 con gà. Lan nuôi : 18 con gà. Hai nhà nuôi:. con gà? - Hướng dẫn học sinh nhìn tóm tắt để nêu lại đề, xác định rõ cái đã cho, cái phải tìm và làm thế nào để trả lời được câu hỏi của đề bài. Học sinh nêu miệng câu lời giải: Cả hai nhà nuôi được tất cả số con gà là: Học sinh nêu miệng phép tính: 22 + 18 = 40 (con gà) - Tiếp đó, yêu cầu học sinh tự giải bài toán. Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán. Ví dụ 2 : Bài tập 2 (trang 31 - SGK toán 2) Anh : 16 tuổi. Em kém anh : 5 tuổi. Em :..tuổi? - Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi đặt đề toán bằng lời. Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề toán: - Bài toán cho biết gì?(Anh 16 tuổi, em kém anh 5 tuổi) - Bài toán hỏi gì?( Tính xem em bao nhiêu tuổi) - Để tính được tuổi của em ta làm thế nào?(Lấysố tuổi của anh trừ đi 5) - Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng: Em năm nay có số tuổi là: 16 - 5= 11 (tuổi) Rồi tự trình bày bài giải: Bài giải Em năm nay có số tuổi là: 16 - 5= 11 (tuổi) Đáp số: 11 tuổi 3. Vận dụng vào các tiết dạy: Tôi tập trung luyện cho học sinh các kĩ năng: Tìm hiểu đề toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình bày bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán, xác định rõ yêu cầu của đề: xác định được cái đã cho, cái phải tìm và dựa vào đâu để trả lời được câu hỏi của đề toán. Trong đề toán thường có một số từ ngữ khó hiểu đối với học sinh, nếu các em đọc lướt hoặc không chú ý sẽ rất dễ xác định nhầm yêu cầu của đề dẫn đến làm sai bài toán. Như vậy, để tránh sự nhầm lẫn không đáng có, tôi tổ chức các hoạt động giúp học sinh tham gia một cách tích cực, giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả” Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm qua đồ dùng trực quan, qua sơ đồ,. Ví dụ: Hàng trên: Hàng dưới: Sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách tự đặt câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán. Để học sinh tìm hiểu kỹ đề, nắm được yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm giáo viên cần hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng lời, bằng sơ đồ đoạn thẳng, kiểm tra lại việc tìm hiểu đề của các em bằng cách yêu cầu các em trình bày lại đề bài qua tóm tắt theo cách hiểu của mình hoặc có thể dùng thủ thuật của mình, yêu cầu học sinh dùng bút chì gạch chân vào từ “chìa khoá” trong đề bài. Trong lớp dạy còn có những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập. Bước 2: Lập kế hoạch giải. a. Chọn phép tính giải thích hợ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_2_giai_toan_co_loi.doc