SKKN Một số kinh nghiệm giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt lớp 1
Người quản lý là người chịu trách nhiệm về các hoạt động chuyên môn và nhiều hoạt động khác của nhà trường. Trong đó quan trọng nhất là trực tiếp tổ chức, quản lý, chỉ đạo việc thực hiện công tác chuyên môn.
Vì vậy người chỉ đạo phải có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có nghiệp vụ quản lý, biết phát huy sức mạnh nội lực để xây dựng độ tin cậy bền vững của tập thể sư phạm trong nhà trường. Bởi vậy muốn có trò giỏi phải có thầy giỏi. Đội ngũ giáo viên là lực lượng quan trọng đặc biệt do vậy người quản lý phải có nhiệm vụ xây dựng và phát huy tiềm năng của từng giáo viên tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện mục tiêu giáo dục, bồi dưỡng giáo viên cốt lõi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Người quản lý phải nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên một cách cụ thể rõ ràng. Có sự phân công giảng dạy cũng như lựa chọn nội dung, hình thức bồi dưỡng một cách hợp lý cho từng giáo viên. Qua nhiều năm làm công tác chỉ đạo chuyên môn tôi thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo các giáo viên có những phương pháp dạy tốt hơn. Như việc gần gũi học sinh, hướng dẫn tận tình cho các em trong giờ học để học sinh dễ hiểu bài, quan tâm giúp đỡ học sinh còn hạn chế về đọc, viết. Bởi vì đối với các em học sinh khối lớp một ở tiểu học việc rèn cho các em kỹ năng đọc, viết là vô cùng quan trọng, nếu các em không đọc thông, viết thạo thì khi học các môn học khác các em tiếp thu cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hổng kiến thức.
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Người quản lý là người chịu trách nhiệm về các hoạt động chuyên môn và nhiều hoạt động khác của nhà trường. Trong đó quan trọng nhất là trực tiếp tổ chức, quản lý, chỉ đạo việc thực hiện công tác chuyên môn. Vì vậy người chỉ đạo phải có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có nghiệp vụ quản lý, biết phát huy sức mạnh nội lực để xây dựng độ tin cậy bền vững của tập thể sư phạm trong nhà trường. Bởi vậy muốn có trò giỏi phải có thầy giỏi. Đội ngũ giáo viên là lực lượng quan trọng đặc biệt do vậy người quản lý phải có nhiệm vụ xây dựng và phát huy tiềm năng của từng giáo viên tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện mục tiêu giáo dục, bồi dưỡng giáo viên cốt lõi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Người quản lý phải nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên một cách cụ thể rõ ràng. Có sự phân công giảng dạy cũng như lựa chọn nội dung, hình thức bồi dưỡng một cách hợp lý cho từng giáo viên. Qua nhiều năm làm công tác chỉ đạo chuyên môn tôi thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo các giáo viên có những phương pháp dạy tốt hơn. Như việc gần gũi học sinh, hướng dẫn tận tình cho các em trong giờ học để học sinh dễ hiểu bài, quan tâm giúp đỡ học sinh còn hạn chế về đọc, viết. Bởi vì đối với các em học sinh khối lớp một ở tiểu học việc rèn cho các em kỹ năng đọc, viết là vô cùng quan trọng, nếu các em không đọc thông, viết thạo thì khi học các môn học khác các em tiếp thu cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hổng kiến thức. 1.2. Mục đích nghiên cứu Là một cán bộ quản lý và chỉ đạo chuyên môn ở trường Tiểu học Tén Tằn huyện Mường Lát tôi luôn suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để cải thiện được chất lượng học sinh của trường ngày một tốt hơn. Lí do này đã thôi thúc tôi tìm hiểu áp dụng để có những biện pháp cụ thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh trong trường Tén Tằn đạt hiệu quả. Từ thực tế đó tôi đã rút ra được: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt lớp 1. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Dạy môn tiếng việt gồm: đọc, nói, viết, nghe ,hiểu muốn có hiệu quả ngay từ năm đầu cấp đòi hỏi người giáo viên phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của các em, hiểu được tâm lý các em và đòi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm huyết của người Giáo viên. Phân môn Học vần: Là phân môn chiếm nhiều thời lượng nhất của môn Tiếng Việt. Phân môn Tập đọc. Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp tổ chức dạy đọc thích hợp để huy động được nhiều học sinh đọc. Một trong những hình thức tối ưu đó là chia nhóm, đọc nối tiếp Dạy phân môn kể chuyện. Được nghe kể chuyện là một nhu cầu tâm lý của học sinh lớp 1, đồng thời cũng là một yêu cầu của chương trình giảng dạy. Phân môn Tập viết. Phân môn Chính tả. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí thuyết. Phương pháp điều tra thực tế. Thu thập thông tin. Giám sát thực hành. 2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh. Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở bậc Tiểu học, là phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu kiến thức của các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh thể hiện ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Do đó, môn Tiếng Việt có một vị trí rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 1. Môn Tiếng Việt là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động và giao tiếp của học sinh, giúp học sinh tự tin và chủ động hoà nhập các hoạt động học tập trong trường học, giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kỹ năng cơ bản ở Tiểu học, đồng thời nó chi phối kết quả học tập của các môn học khác. 2.2. Thực trạng trường, lớp, giáo viên và học sinh trường Tiểu học Tén Tằn huyện Mường Lát năm học 2016 - 2017. - Toàn trường có 5 điểm trường, trong đó có 4 điểm trường lẻ. - Với tổng số lớp: 25 lớp trong đó có 3 lớp ghép - Tổng số học sinh: 438 em. - Số lớp 1 là: 4 lớp ( còn thêm 2 lớp ghép 1+3) = 103 em - Tổng số giáo viên giảng dạy trong toàn trường: 28 Giáo viên. - Trong đó có 4 giáo viên dạy lớp 1. 1) Thuận lợi: a) Đối với giáo viên: + Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp quản lý, đặc biệt là bộ phận chuyên môn bậc Tiểu học phòng GD&ĐT huyện Mường Lát cũng như Ban giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm đến chất lượng lớp 1. Thường xuyên tổ chức các tiết thao giảng, dự giờ, thăm lớp hỗ trợ việc nâng cao chất lượng dạy và học. - Hàng năm tổ chức các phong trào dạy và học (Hội thi giáo viên dạy giỏi) giúp Giáo viên chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong giảng dạy. - Đảm bảo công tác thông tin hai chiều trong chỉ đạo chuyên môn, + Giáo viên dạy lớp 1 nhiệt tình trong công tác, có tinh thần tự học, tự rèn luyện nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, có nhiều năm giảng dạy lớp 1. b) Đối với học sinh: + Tất cả trẻ em đúng 6 tuổi đều được vào học lớp 1, được xã hội, gia đình ngày một quan tâm hơn. + Đa số trẻ đều được qua lớp mẫu giáo, được chuẩn bị các kĩ năng thích ứng với hoạt động học tập giúp các em có tâm thế sẵn sàng học tập khi vào học lớp 1. 2) Khó khăn: Do địa bàn dân cư thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn. Đa số Học sinh là con em dân tộc thiểu số nên giao tiếp chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ ít khi giao tiếp bằng tiếng kinh nên khi vào lớp 1 số lượng từ của học sinh sử dụng được trong giao tiếp không nhiều, học sinh chỉ nói được những từ, câu rất đơn giản như: Thầy giáo, cô giáo, bạn, hay các sự vật gần gũi như: Quyển vở, bút chì, cái bảng,... Vì vậy, số lượng từ mà các em sử dụng được khi đi học lớp 1 còn thấp, chưa biết diễn đạt điều muốn nói bằng tiếng Việt. Ở nhà các em giao tiếp toàn bằng tiếng Thái. Vẫn còn phải ghép lớp 1 ở một số khu lẻ trong nhà trường. Khả năng chú ý và tập trung vào bài học của học sinh không bền. Học sinh đi học thất thường nhất là những ngày mưa. + Đồ dùng học tập của HS thiếu rất nhiều như: tranh vẽ tiết kể chuyện, bộ chữ ghép vần, bảng con, sách giáo khoa + Việc đầu tư cho hoạt động luyện nói còn hạn chế + Đồ dùng dạy học của giáo viên còn hạn chế, việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy còn chậm. Qua quá trình chỉ đạo và theo dõi tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt của khối lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu mà một số học sinh lớp Một đến cuối năm đọc, viết vẫn còn chậm tập trung vào những nguyên nhân sau đây: 1.Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một số giáo viên chưa thật nhiệt tình giúp đỡ học sinh. 2.Đối với học sinh: HS cá biệt, học hay quên, lười học, không luyện đọc, viết ở nhà, do hoàn cảnh gia đình. 3.Đối với phụ huynh: Một số gia đình không quan tâm đến con em mình, phó mặc cho nhà trường. Từ thực trạng nêu trên ở địa phương, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng và từ đó đề xuất ý tưởng chỉ đạo việc dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 của trường Tiểu học Tén Tằn huyện Mường Lát đặc biệt là học sinh lớp 1 trường tiểu học Tén Tằn trong những năm học qua. 2.3. Giải pháp đã sử dụng để giúp giáo viên dạy khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt. Ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cho các khu, lớp tổ chức họp Phụ huynh Học sinh lớp 1 mình đang dạy, thống nhất một số sách vở đồ dùng học tập cần mua để cho con em có sách và đồ dùng khi học tập. Cùng Phụ huynh tìm cách dạy đọc, viết, nghe hiểu ở môn Tiếng Việt cho Học sinh đưa đến thống nhất cách dạy cho các em lúc ở nhà. Qua đó Giáo viên hiểu được hoàn cảnh của từng Học sinh trong lớp. Giáo viên có những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay để làm sao nâng dần chất lượng dạy môn Tiếng Việt cho các em học sinh lớp Một. 2.3.1. Một số giải pháp nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1. 1.1. Phân công những giáo viên nhiệt tình, có trình độ chuyên môn và trách nhiệm cao, là người địa phương hoặc thông thạo tiếng địa phương làm công tác chủ nhiệm lớp 1. 1.2. Chỉ đạo giáo viên dạy học theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh, bám sát đối tượng, phù hợp và phát huy được tính tích cực của học sinh trong cùng một lớp học. 1.3. Chỉ đạo tốt việc dạy học theo Chuẩn kiến thức và kỹ năng, lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù hợp với địa phương, phù hợp với từng nhóm học sinh; tăng cường việc chấm, chữa bài, chỉ ra những lỗi sai của học sinh để giúp các em tự sửa những lỗi của mình; kịp thời động viên, khích lệ những cố gắng của học sinh. Khuyến khích giáo viên tăng cường làm đồ dùng dạy học và sử dụng đồ dùng tự làm, các loại đồ dùng có sẵn ở địa phương, đồ dùng dạy học được cấp phát một cách hợp lý, phù hợp với học sinh để tạo hứng thú trong học tập của học sinh, làm cho học sinh nhận thấy học tiếng Việt là có ích và thực sự cần thiết, tạo niềm đam mê trong học tập của các em, tạo môi trường thân thiện để các em tham gia, tạo động cơ “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” đối với học sinh để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học. 1.4. Thực hiện dạy học Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc thiểu số theo hướng điều chỉnh kế hoạch dạy học từ 350 tiết/năm lên thành 500 tiết/năm (phương án tăng thời lượng Tiếng Việt). Chỉ đạo các lớp tổ chức cho học sinh làm quen với Tiếng việt trước 2 tuần học chương trình lớp 1; điều chỉnh thời gian dạy học của các môn học khác để tăng thêm thời gian cho môn Tiếng Việt. 1.5. Tăng cường tích hợp dạy Tiếng Việt trong các môn học, các hoạt động giáo dục. Vận dụng các phương pháp dạy học Tiếng Việt với tư cách dạy học ngôn ngữ thứ hai; tăng thời gian luyện nói cho học sinh. 1.6. Cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả và động viên, khuyến khích kịp thời công tác quản lý, sự tiến bộ của học sinh lớp 1 về đọc đúng, viết đẹp của các lớp 1 trong nhà trường. 2.3.2. Những giải pháp cụ thể cho từng phân môn: 2.1. Phân môn Học vần: Là phân môn chiếm nhiều thời lượng nhất của môn Tiếng Việt. Nếu học sinh không thuộc được các chữ cái, biết ghép các vần thì học sinh không thể đọc, viết cũng như học các môn học khác được. Vì vậy trong công tác chỉ đạo, tôi đã áp dụng một số giải pháp sau: a) Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm lớp tạo mọi điều kiện về thời gian và tài liệu, thiết bị dạy học để học sinh được thực hành các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói và phát triển nhiều nhất hai kỹ năng đọc, viết. Tăng thời lượng dạy học phân môn Học vần. Sử dụng nhiều hình thức dạy học sinh động để tạo hứng thú cho học sinh trước khi bước vào bài học mới: Hội thoại tự nhiên giữa giáo viên và học sinh; vào bài bằng một bài hát, một câu chuyện nhỏ, một câu đố vui, tổ chức nhiều trò chơi học tập cho học sinh tham gia, b) Rèn cho học sinh đọc đúng, viết đúng các âm, vần, tiếng dễ lẫn do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương: Phụ âm đầu: b/v; đ/l; dấu thanh: hỏi/nặng; ngã/sắc... Ví dụ: Cho các em đọc liên tục các câu đơn giản: Bố bế bé, bé vẽ bò bê, c) Tăng cường sử dụng các đồ dùng trực quan sinh động, các hình thức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ: Khi dạy vần ai, ay giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Em là họa sỹ”: - Em hãy tô màu xanh vào những quả có chứa vần ai. - Em hãy tô màu hồng vào những quả có chứa vần ay. Chắc chắn với vai trò của “Một họa sỹ tí hon” các em sẽ vô cùng say sưa với các tác phẩm nghệ thuật của mình mà không hề cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Tuy nhiên giáo viên cần phải thay đổi thường xuyên những hình ảnh minh họa để giúp học sinh khỏi bị nhàm chán. d) Không giải nghĩa từ bằng định nghĩa, từ điển mà nên giải nghĩa từ bằng các hình ảnh trực quan, các vật thật hoặc đưa các từ vào trong văn cảnh cụ thể để học sinh hiểu được nghĩa của từ. đ) Sử dụng ngữ điệu chứa nội dung hấp dẫn, sưu tầm các câu đồng dao, thơ để giúp học sinh dễ thuộc, viết đúng các chữ cái. Ví dụ: - i, t hai chữ giống nhau; i ngắn có dấu, t dài có ngang. - o tròn như quả trứng gà, ô thì đội nón, ơ thì thêm râu. o, a hai chữ khác nhau, a thì có gắn móc câu bên mình. Hoặc sử dụng một số câu đố vui để giới thiệu một số âm, vần thay cho việc yêu cầu học sinh quan sát tranh để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh. Ví dụ: - Nét tròn em đọc chữ o - Xóa đi một nửa sẽ cho chữ gì? (Chữ c) Giáo viên cùng học sinh tham gia đố vui rồi dẫn học sinh vào bài học một cách nhẹ nhàng: GV: Đố các con đây là con gì? Mắt màu hồng, thích rau xanh Đôi tai dài thượt, chẳng nhanh hơn Rùa. (Con Thỏ - Dạy bài 15: t, th, tổ, thỏ) e) Hạn chế tối đa sử dụng tiếng địa phương trong dạy học. Chỉ sử dụng khi thật sự cần thiết với học sinh lớp 1. 2.2. Phân môn Tập đọc. a) Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp tổ chức dạy đọc thích hợp để huy động được nhiều học sinh đọc. Một trong những hình thức tối ưu đó là chia nhóm, đọc nối tiếp. b) Chú ý cho học sinh luyện đọc nhiều và sửa sai kịp thời cho học sinh những từ học sinh hay đọc sai. c) Thực hiện quy trình dạy tập đọc linh hoạt phù hợp với từng thể loại văn bản và với từng giai đoạn học tập của học sinh. Luyện cho học sinh đọc theo nhóm đôi nghe và sửa sai cho bạn. Giáo viên theo dõi học sinh luyện đọc theo nhóm 2.3. Dạy phân môn kể chuyện. Được nghe kể chuyện là một nhu cầu tâm lý của học sinh lớp 1, đồng thời cũng là một yêu cầu của chương trình giảng dạy. Để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ kể chuyện và nâng cao hiệu quả giờ dạy, giáo viên cần sử dụng một số giải pháp sau: a) Giáo viên chú ý rèn luyện giọng kể của mình, làm cho học sinh hứng thú khi nghe kể chuyện, coi trọng các thủ pháp mở đầu câu chuyện, thêm tình tiết cho văn bản truyện.Có thẻ kẻ với kết thúc mở để học sinh dự đoán kết thúc. b) Sử dụng linh hoạt các biện pháp dạy học thích hợp: Làm mẫu, dẫn dắt, gợi mở bằng câu hỏi hoặc tranh ảnh nhằm khích lệ học sinh mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động rèn kỹ năng nói của mình. c) Hướng dẫn học sinh kể bằng lời của mình, không máy móc dập khuôn. d) Tổ chức tốt các hình thức luyện tập, gây hứng thú đối với học sinh (phân vai, đóng kịch...); chú ý tạo mọi cơ hội cho học sinh được thực hiện luyện tập kể chuyện trên lớp, trong nhóm, tổ hoặc theo cặp. đ) Một số yêu cầu khó có thể được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với trình độ học sinh. e) Giáo viên cần gợi mở, dẫn dắt hướng dẫn học sinh kể chuyện. 2.4. Phân môn Tập viết a) Giáo viên viết chữ mẫu đúng và đẹp từng kiểu chữ, mẫu chữ. b) Dạy học sinh viết đúng các nét chữ cơ bản như nét gạch ngang, nét khuyết, nét xiên phải, cong tròn,... Dạy viết theo nhóm các chữ có nét cơ bản giống nhau. c) Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập với số chữ, số dòng theo trình độ học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh cụ thể về các yêu cầu kỹ thuật viết từng nét chữ, điểm đặt bút, điểm dừng bút trên dòng kẻ ly để hình thành nên một chữ cái, rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu. Đối với học sinh lớp 1 vùng cao giáo viên cần viết lại chữ mẫu nhiều lần để học sinh bắt chước viết theo. Mua vở luyện viết có sẵn mẫu chữ cho học sinh tập viết thêm ở nhà. d) Sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị hỗ trợ dạy học Tập viết: Bảng cài, bảng lớp, bảng con...; Rèn tư thế ngồi viết đúng cho học sinh. Giáo viên cần cầm tay hướng dẫn trực tiếp một số em giúp em ấy thấy chỗ chỉnh sửa lại Cô cầm tay hướng dẫn học sinh trong tiết tập viết. 2.5. Phân môn Chính tả. a) Giáo viên chuẩn bị và hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt các phương tiện viết bài chính tả (vở, bút, bảng lớp, bảng phụ). b) Giáo viên chú ý cách đọc: Đọc to, rõ ràng, điều chỉnh tốc độ đọc cho phù hợp với trình độ học sinh.Có thể đánh vần một số tiếng khó để học sinh dễ viết. c) Có thể thay đổi bài tập chính tả cho phù hợp với lỗi của học sinh trong lớp. d) Thường xuyên chấm bài, chữa lỗi cho học sinh, hướng dẫn học sinh cách tự chấm bài, chữa lỗi cho nhau. 2.3. 3.Các giải pháp thực hiện 3.1-Dạy học theo nhóm đối tượng: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh. - Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như sau: * Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, chưa hoàn thành * Nhóm 2: Gồm những học sinh hoàn thành * Nhóm 3: Gồm những học sinh hoàn thành tốt - Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3. Trong quá trình dạy giáo viên gần gũi tất cả Học sinh và dành thời gian kèm cho Học sinh học chưa tốt. Nhà trường đã tổ chức cho Giáo viên đăng ký dạy phụ đạo học sinh yếu kém vào buổi 2 ít nhất 2 buổi/ tuần. Giáo viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học. Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 2 và 3. Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương này. Chẳng hạn bài 46 vần au, âu các em chỉ cần viết au, âu, cây rau ,cái cầu, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở nhóm 3 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn. Sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật khi dạy. - Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm. Có đồ dùng dạy học nhất là vật thật thì tiết học sinh động hơn, học sinh sẽ có hứng thú và dễ nhớ hơn. Ví dụ: Ở những bài học về vần như Bài 41 trang 86 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng trang vẽ ( hoặc vật thật) trái lựu; Tranh con hươu sao ,để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở phần đầu tiết học. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học. Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ vần và từ tốt hơn. - Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói. Ví dụ: Bài Tặng cháu– Trang 49 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 tập II – Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần ao, au. Giáo viên treo tranh chim chào mào, tranh các bạn học sinh rủ nhau đi học – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có vần ao, au, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được và hiểu được nghĩa của từ đó .Các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần ao, au như cái mo cau, ngôi sao năm cánh mà không cần dựa vào tranh. Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại vừa tạo sự hứng thú cho học sinh học chậm cố gắng vươn lên. Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh. Người Giáo viên dạy lớp Một cần hiểu rằng các em học sinh lớp Một như tờ giấy trắng Giáo viên dạy các em những gì hay nhất tốt đẹp nhất để các em học theo. Các em tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh la mắng quát, phạt các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay các em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học si
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_giao_vien_nang_cao_chat_luong_d.doc