SKKN Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Định Tường, năm học 2015 - 2016
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó góp phần không nhỏ trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, giúp trẻ “học làm người” và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào học lớp một. Với đặc thù của trẻ lứa tuổi mầm non là đang làm quen với thế giới tự nhiên và xã hội, trẻ bước vào cuộc sống xã hội với mọi thứ đều mới mẻ, cho nên đồng hành với việc dạy kiến thức cho trẻ, phải dạy cả các kỹ năng sống cơ bản: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân. nhằm giúp trẻ phát triển một số giá trị, nét tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ. hình thành nếp sống văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp theo qui tắc, chuẩn mực phù hợp. không những vậy, kỹ năng sống còn rèn luyện cho trẻ biết cách xử lý tình huống trong từng hoàn cảnh cụ thể, bày tỏ tình cảm phù hợp, đúng lúc, biết tránh những vật, những nơi không an toàn, gây nguy hiểm đến tính mạng và cách phòng tránh, tự lập trong các tình huống quen thuộc, có một số kỹ năng tự phục vụ, hợp tác, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
Đối với trẻ mầm non việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước hình thành cơ sở ban đầu của hành vi, tính cách và nhân cách. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ”. Do đó nếu gia đình và nhà trường có biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp thì sẽ hình thành ở trẻ tính tự tin, mạnh dạn, tự lực, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho việc học tập ở trường tiểu học và ở các cấp học sau.
A. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó góp phần không nhỏ trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, giúp trẻ “học làm người” và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào học lớp một. Với đặc thù của trẻ lứa tuổi mầm non là đang làm quen với thế giới tự nhiên và xã hội, trẻ bước vào cuộc sống xã hội với mọi thứ đều mới mẻ, cho nên đồng hành với việc dạy kiến thức cho trẻ, phải dạy cả các kỹ năng sống cơ bản: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân... nhằm giúp trẻ phát triển một số giá trị, nét tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ... hình thành nếp sống văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp theo qui tắc, chuẩn mực phù hợp... không những vậy, kỹ năng sống còn rèn luyện cho trẻ biết cách xử lý tình huống trong từng hoàn cảnh cụ thể, bày tỏ tình cảm phù hợp, đúng lúc, biết tránh những vật, những nơi không an toàn, gây nguy hiểm đến tính mạng và cách phòng tránh, tự lập trong các tình huống quen thuộc, có một số kỹ năng tự phục vụ, hợp tác, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước hình thành cơ sở ban đầu của hành vi, tính cách và nhân cách. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ”. Do đó nếu gia đình và nhà trường có biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp thì sẽ hình thành ở trẻ tính tự tin, mạnh dạn, tự lực, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho việc học tập ở trường tiểu học và ở các cấp học sau. Theo quan niệm của UNESCO, 8 tuổi đã là quá trễ để giáo dục kỹ năng sống. Vì đến độ tuổi này trẻ đã hình thành cho mình phần lớn các giá trị; trừ khi có sự thay đổi sâu sắc về trải nghiệm trong đời, nếu không thì khó mà lĩnh hội thêm giá trị sau độ tuổi này. Trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu từ môi trường sống xung quanh, như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với trẻ, cách tiếp xúc với trẻ,... tất cả đều tác động đến sự phát triển của trẻ. Vì vậy việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành từ bậc học mầm non. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay cho thấy, mặc dù xã hội phát triển, trình độ tri thức của trẻ được nâng lên gấp bội nhưng kỹ năng sống của trẻ dường như bị tụt lùi, gây khó khăn cho hoạt động sinh hoạt hàng ngày cũng như trong môi trường xã hội rộng lớn. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do kinh tế phát triển, phụ huynh phải tham gia vào các hoạt động xã hội, không có nhiều thời gian để trò chuyện, tâm sự nhiều với con cái, trẻ không phải làm việc giúp gia đình nên có những đứa trẻ 5 – 6 tuổi vẫn được mẹ chăm bẳm từ việc vệ sinh cá nhân, việc mặc quần áo đến việc xúc cơm cho ăn Những việc này vô tình đã làm mất dần kỹ năng sống cho trẻ. Bên cạnh đó, ở trường mầm non, giáo viên đôi khi chỉ chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức mà chưa chú ý nhiều đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; điều kiện về thời gian và trang thiết bị, môi trường để giáo dục kỹ năng sống còn hạn chế. Một số giáo viên còn lúng túng trong việc xác định nội dung và biện pháp phù hợp; đó là nguyên nhân dẫn đến một số trẻ biểu hiện kỹ năng xã hội còn yếu như: Đánh bạn, tranh dành đồ chơi của bạn, chơi một mình không biết chia sẻ với bạn và mọi người xung quanh. Trăn trở với mục tiêu chung của giáo dục, là một người giáo viên mầm non, tôi suy nghĩ mình phải làm gì và làm như thế nào để đưa chất lượng giáo dục ngày càng một nâng cao, trong đó có “Kỹ năng sống” cho trẻ. Do đó, bản thân đã không ngừng học hỏi qua lớp chuyên đề, qua học BDTX, qua nghiên cứu tài liệu, qua những lần tiếp xúc với phụ huynh và nắm bắt đặc điểm tâm lý của trẻ tôi đã xác định được tầm quan trọng của việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho trẻ có tác động lớn đến sự giáo dục đạo đức đến sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ hiện tại và sau này. Vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Định Tường, năm học 2015 - 2016”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nhằm tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Định Tường. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, khái quát hóa các tài liệu cần thiết có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, đánh giá, phương pháp theo dõi bằng phiếu; phương pháp quan sát. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Khái niệm kỹ năng sống. Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống hằng ngày để tương tác có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Không những thế nội dung giáo dục kỹ năng sống đã chỉ ra rất rõ đó là những giá trị sống và kỹ năng sống tương ứng mà nhà giáo dục cần hình thành cho trẻ ý thức về bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện công việc, ứng phó với thay đổi. 2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một trong những vấn đề then chốt hiện nay trong việc giáo dục nhân cách con người. Theo xu hướng chung, giáo dục trên thế giới đang quan tâm đến vấn đề giáo dục và trang bị cho thế hệ trẻ các kỹ năng sống, các kỹ năng giao tiếp, ứng xử để giải quyết các vấn đề quan hệ xã hội để tự bảo vệ mình, đồng thời hướng đến môi trường giáo dục sự hòa hợp, hợp tác thân thiện cho trẻ trên cơ sở các giá trị cuộc sống. Trên thực tế cho thấy có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức chưa hẳn đã có hành vi đúng, cho nên kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội và bảo vệ quyền con người. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc trang bị vốn sống cho trẻ là một điều cần thiết. Bởi điều này sẽ giúp trẻ ứng phó trước tình huống, quản lý cảm xúc, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh. Không chỉ vậy, kỹ năng sống còn giúp trẻ không bị rối trí hay hoang mang khi đối mặt trước những khó khăn trong cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm sống, trẻ biết được những điều nên làm và những điều không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách sử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và cần thiết cho sự phát triển tư duy, khả năng học hỏi của trẻ sau này. Đặc biệt là trong đời sống xã hội hiện đại của chúng ta ngày nay giáo dục kỹ năng sống được xem như một thành tố quan trọng để đánh giá chất lượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục kỹ năng sống hỗ trợ các quyền trẻ em trong tiếp cận với thông tin, các kỹ năng cần thiết và các dịch vụ y tế, giáo dục và quyền được tham gia. Chúng ta cần tạo năng lực tâm lý xã hội trẻ, chủ yếu giúp cho trẻ phát huy nội lực với những kỹ năng sống để trẻ có thể tự bảo vệ mình và ứng phó với cuộc sống. Từ đó trẻ có thể học tiếp cận và xử lí thông tin một cách nhanh chóng. Nếu chúng ta làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì càng tạo nền tảng vững chắc cho khả năng học tập của trẻ bước vào lớp một. II. THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ĐỊNH TƯỜNG. 1. Thực trạng: Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi: - Đối với trẻ: Trẻ rất hiếu động, thích khám phá thế giới xung quanh, tích cực tham gia các hoạt động trong ngày do cô tổ chức. - Đối với bản thân: Là giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện, bản thân luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, năng động và sáng tạo trong giảng dạy. Vì vậy, việc dạy học của cô và trẻ đã đạt được kết quả nhất định. Trong đó “Giáo dục kỹ năng sống”cho trẻ cũng đạt được kết quả khả quan. - Đối với nhà trường: Là trường chuẩn Quốc gia nên có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện tốt công việc nghiên cứu đề tài của mình. - Đối với phụ huynh: Phụ huynh luôn quan tâm, tạo điều kiện trong việc giáo dục trẻ. b. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi đó, trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ bản thân tôi thấy bộc lộ một số tồn tại sau: - Bản thân tôi và một số giáo viên trong trường chưa hiểu sâu và cụ thể về nội dung phải dạy trẻ những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng những kế hoạch, định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Mặt khác, giáo viên bị áp lực với phụ huynh về chất lượng giảng dạy nên xem nhẹ việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. - Sĩ số trẻ trên nhóm lớp đông nên ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động giáo dục, đặc biệt là việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. - Là địa phương thuần nông nên đa số các bậc phụ huynh không có điều kiện để quan tâm đến trẻ, ít tâm sự, trò chuyện với trẻ; Không ít cha mẹ trẻ đi làm ăn xa, để con cho ông bà nên việc phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế. - Một số phụ huynh luôn nóng vội trong việc dạy con. Do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, biết viết hoặc chưa biết chữ số thì lo lắng, không hài lòng. Họ thường chiều chuộng, cưng phụng con cái, không yêu cầu trẻ làm bất cứ việc gì kể cả việc ăn, uống, vệ sinh. Nên trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, không biết cách sử dụng đồ dùng cũng như biết mục đích và tầm quan trọng của những đồ dùng đó. - Từ năm học 2008 – 2009 đến nay các trường đã triển khai phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo tinh thần chỉ đạo của cấp trên nhằm tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của trẻ vào cộng đồng trong các hoạt động giáo dục của nhà trường với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong 5 nội dung có nội dung rèn kỹ năng sống cho trẻ. Song việc triển khai của nhà trường không đồng bộ, không cụ thể và còn nôm na, chiếu lệ. - Nhà trường chưa tổ chức cho trẻ đi thăm quan, dã ngoại để mở rộng hiểu biết và rèn luyện kỹ năng sống. - Một số trẻ nhút nhát không tự tin tham gia vào các hoạt động ngược lại, một số trẻ lại rất hiếu động nên không chú ý vào sự hướng dẫn của cô. 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành khảo sát trẻ về kỹ năng sống ở lớp tôi như sau: Tổng số trẻ: 42 Đối tượng: 5 – 6 tuổi TT Nội dung Tổng số trẻ khảo sát Kết quả Đạt Tỷ lệ CĐ Tỷ lệ 1 Thể hiện ý thức về bản thân. 42 35 83.3 7 16.7 2 Thể hiện sự tự tin, tự lực. 42 30 71.4 12 28.6 3 Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người, sự vật, hiện tượng xung quanh. 42 28 66.7 14 33.3 4 Có hành vi và thực hiện quy tắc ứng xử xã hội 42 29 69 13 31 5 Quan tâm đến môi trường 42 26 61.9 16 38.1 Kết quả chung 42 31 73.8 11 26.2 Qua bảng khảo sát trên cho thấy, tỷ lệ trẻ thiếu tự tin, không chủ động, tự mình nổ lực cố gắng thực hiện nhiện vụ được giao. Việc thể hiện cảm xúc đôi khi chưa phù hợp với hoàn cảnh; đặc biệt chưa quan tâm và chưa có ý thức bảo vệ môi trường. Vì thế tỷ lệ trẻ chưa đạt yêu cầu về kỹ năng sống còn cao, chiếm tới 26.2%. Vì thế để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, cụ thể như sau: III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Biện pháp 1: Nghiên cứu tài liệu, mục tiêu của chương trình và nắm bắt đặc điểm, khả năng của trẻ trong lớp để xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách phù hợp và hiệu quả, đòi hỏi bản thân mỗi giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình và cách thức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đồng thời hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi. Nhận thức được điều đó trong năm qua, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và xây dựng được kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi một cách phù hợp theo từng chủ đề. Chẳng hạn, với chủ đề gia đình, tôi đã lựa chọn nội dung giáo dục đó là: Giáo dục trẻ biết quan tâm đến người thân trong gia đình, biết thể hiện tình cảm, cảm xúc và cư sử đúng mực với các thành viên. Trên cơ sở đó, tôi lựa chọn một số biện pháp giáo dục phù hợp như: Trò chuyện, tìm hiểu về gia đình trẻ, tổ chức các hoạt động văn nghệ, câu lạc bộ thơ ca... có liên quan đến giáo dục tình cảm gia đình, tạo tình huống có vấn đề để trẻ thể hiện cảm xúc, ứng xử phù hợp... Sau khi xây dựng được kế hoạch, tôi đã tìm tòi các hình thức tổ chức phù hợp thông qua việc tạo cơ hội cho trẻ được chơi, được giao lưu, tiếp xúc với nhiều đối tượng, được trải nghiệm thông qua các hoạt động tập thể vui tươi lành mạnh, khuyến khích trẻ vận dụng kiến thức và kỹ năng mới vào cuộc sống. Đồng thời, luôn lắng nghe để hiểu, tôn trọng và tin tưởng trẻ, động viên, khen ngợi kịp thời những trẻ có kỹ năng sống tốt. Trong quá trình đó, tôi luôn chú ý theo dõi, ghi chép và đánh giá vào cuối chủ đề để có biện pháp điều chỉnh (nếu cần) ở những chủ đề sau. Chính nhờ việc xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống một cách chặt chẽ, sát với tình hình thực tế của trẻ nên kỹ năng sống của trẻ được nâng lên rõ rệt. 2. Biện pháp 2: Tạo môi trường vật chất phong phú và tinh thần lành mạnh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; Động viên khen thưởng kịp thời những trẻ có kỹ năng sống tốt. * Cô giáo là tấm gương sáng để trẻ noi theo Để giáo dục "kỹ năng sống" cho trẻ có hiệu quả, trước hết cô giáo phải là tấm gương sáng về mọi mặt cho trẻ noi theo, cần nắm vững các nhiệm vụ giáo dục đối với trẻ, tạo không khí thân ái giữa hai giáo viên trong lớp và các giáo viên trong trường luôn tôn trọng lẫn nhau, quan tâm đến nhau. Bởi vì trẻ thường hay bắt chước, trẻ thấy thích được làm theo, nói theo, trẻ chưa hiểu hết thế nào là hành vi đúng, sai, tốt, xấu, trẻ quen được mọi người phục vụ, điều đó nếu cô không giáo dục đúng mực sẽ dẫn đến những thói quen, hành vi xấu như thiếu lễ phép, trông chờ, ỷ lại... Ví dụ: Cháu Thanh Nga về nhà bắt chước cô dạy học, có thể trẻ chơi một mình hay chơi với ông bà, bố mẹ làm học sinh và trẻ thể hiện giống như cô ở lớp: Các con ngồi ngoan nghe cô đọc thơ nhé. Cô vừa đọc bài thơ gì? Bài thơ do ai sáng tác. Cô mời cả lớp đọc thơ cùng cô nào. Cô mời tổ chim non... hoặc trẻ thường bắt chước cô điểm danh, trẻ cũng tìm một tờ giấy hay quyển vở và cái bút giả vờ điểm danh gọi tên các bạn trong lớp... Chính vì thế, cô giáo cần phải thận trọng khi nói hay khi dạy trẻ những thói quen, hành vi tốt từ những việc làm cho đến cách cư xử giao tiếp với cô, với bạn và mọi người xung quanh. Ví dụ: Hàng ngày khi đón trả trẻ gặp gỡ phụ huynh tôi cũng chào hỏi niềm nở "em chào chị, cháu chào Ông, cháu chào bà ..." hoặc khi nhờ trẻ làm giúp điều gì tôi liền nói "Cô cảm ơn con gái, cô cảm ơn con trai”, khi làm điều gì lỡ với trẻ tôi cũng kịp thời nói: "Cho cô xin lỗi con"... Cứ mỗi lần như thế trên khuôn mặt, ánh mắt của trẻ ánh lên những tình cảm chân thành gần gũi thân quen và bằng những việc làm cụ thể như giúp đỡ bạn, em nhỏ, không nói tục chửi bậy, không vứt rác, vẽ bậy, biết tự làm những công việc đơn giản vừa sức Đó chính là giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, điều này trẻ cần được học ngay từ lứa tuổi mầm non. Nếu trẻ được chăm sóc giáo dục trong môi trường tốt thì sẽ trở thành con người tốt phát triển toàn diện và nếu chăm sóc giáo dục không tốt thì sẽ trở thành thói hư tật xấu. Vì thế, giáo viên là người trực tiếp dạy trẻ mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của cô giáo phải luôn mẫu mực, luôn là tấm gương sáng để trẻ noi theo. * Xây dựng mối quan hệ tình cảm, thân thiện giữa giáo viên và trẻ, giữa trẻ với trẻ từ đó giáo dục kỹ năng sống giữa trẻ với nhau: Mỗi giáo viên chúng ta có vai trò quyết định trong mối quan hệ này, mọi trẻ đều cảm thấy phấn khởi vui vẻ khi được cô yêu thương và được đối xử công bằng. Công bằng là nền tảng cho việc tạo ra mối quan hệ tốt, tránh sự thiên vị, giáo viên cần tạo tâm lý tin cậy, mong muốn chia sẻ, gần gũi giữa giáo viên và trẻ: cô luôn cư xử với thái độ ân cần niềm nở, biết cách lắng nghe trẻ, luôn gọi tên trẻ khi giao tiếp. Thời gian trẻ ở bên cô còn nhiều hơn thời gian bên gia đình, bên bố mẹ. Bản thân là giáo viên mầm non, tiếp xúc nhiều với trẻ, chăm sóc giáo dục trẻ nên tôi nghĩ phải làm cho trẻ cảm nhận được đây chính là ngôi nhà chứa đầy tình thương của trẻ và cô giáo như người mẹ thứ hai của mình, khi trẻ cần được yêu thương chia sẻ, cần được che chở đã có cô bên cạnh Giáo viên luôn tạo mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với nhau thông qua tổ chức các hoạt động tập thể: trao đổi, trò chuyện, thảo luận, vui chơi, trưng bày sản phẩm, chia sẻ ý tưởng... Cô giáo như một vị chủ tọa phiên tòa xét sử công bằng của trẻ, suốt ngày cô phải xét xử những vụ kiện nho nhỏ như: Con thưa cô bạn lấy đồ chơi của con, con thưa cô bạn không cho con chơi, rồi con thưa cô bạn không chơi với con ...., khi này cô hỏi trẻ: Vì sao bạn lấy đồ chơi của con? Tại sao con lại không cho bạn chơi cùng? cô đến bên trẻ nhẹ nhàng tìm hiểu nguyên nhân và giải thích cho trẻ hiểu các con là bạn với nhau, học cùng lớp phải biết thương yêu, nhường nhịn, chia sẻ, biết giúp bạn, rủ bạn cùng chơi phải không nào... lúc này trẻ có thêm niềm tin, tình thương và lòng vị tha đối với bạn thì sẽ chia đồ chơi cho bạn và rủ bạn cùng chơi vui vẻ, đặc biệt lúc đó cô cần cư xử công bằng không thiên vị trẻ này hay bênh vực trẻ kia, làm tổn thương trẻ còn lại và như thế làm mất niền tin ở trẻ đối với cô giáo của mình, khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự tin diễn đạt bằng lời nói, dạy trẻ thoải mái tự tin trước đám đông như: trên sân khấu, trước các cô, trước các bạn, người lạ... Tôn trọng sự phát triển tự nhiên, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm cá nhân của từng trẻ như: năng lực khó khăn trong giao tiếp, ngôn ngữ của trẻ chưa rõ ràng..., chấp nhận trẻ học bằng cách "Thử - sai" cho phép trẻ được làm sai trước khi làm đúng, cô không nên sửa sai quá nhiều, động viên trẻ tự tin vào bản thân bằng những lời nói nhẹ nhàng của cô "Không sao đâu con", "Làm lại đi nào", "Từ từ thôi con", "con sắp làm được rồi", "con làm gần đẹp rồi",... Ví dụ: Cháu Quỳnh Anh ngôn ngữ của cháu chưa rõ ràng, nhiều từ nói còn ngọng, còn lắp, đôi khi là tiếng địa phương như: em bé nhà cháu có cái "lúc lác" (lúc lắc) đẹp lắm cô ạ, hay mẹ cháu "biểu" là đến trường phải ngoan... Khi đó tôi phát âm rõ ràng cho trẻ nghe trước, sau đó cho trẻ phát âm cùng cô, trong khi trẻ phát âm cô nhẹ nhàng động viên trẻ: Con nói sắp đúng rồi con nói lại cô nghe nào, luyện như thế cho trẻ nhiều lần trẻ sẽ quen, đến giờ trẻ tương đối nói rõ ràng, nói đúng từ đúng câu, đây là cách luyện phát âm cho trẻ rất quan trọng, như vậy dần dần ngôn ngữ của trẻ được phát triển hoàn thiện. Khi trẻ gặp thất vọng cô nên kiên nhẫn với trẻ, tránh thúc ép, căng thẳng khi luyện tập các kỹ năng cho trẻ, cô cần phải chờ đợi, tôn trọng ý kiến cá nhân của trẻ như khi dạy trẻ phát biểu ý kiến tránh áp đặt. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen suy nghĩ một cách độc lập, không định kiến với trẻ, chỉ cấm đoán những việc không an toàn, hạn chế mệnh lệnh đối với trẻ, tăng cường khích lệ trẻ, cô không nên nói "không được làm thế này" mà nói "con nên làm thế này cô thấy thích hơn" hay như "con nên nói nhẹ nhàng" thay vì "không
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_giao_duc_ky_nang_song_cho_tre_5_6_tu.doc