SKKN Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4

SKKN Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4

Giáo dục Tiểu học là bậc học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển toàn diện về đức- trí- thể- mĩ. Đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác.

 Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Học thuộc lòng, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết.Mỗi môn đều có một chức năng khi dạy Tiếng Việt cho học sinh, đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn.

 Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và câu có có nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói - viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là:

 + Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản về từ và câu.

 + Rốn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.

 + Bồi d¬ưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt trong văn hóa giao tiếp.

 Phân môn Luyện từ và câu là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học, môn học này còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh (về từ ngữ, câu văn.) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ, giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương.Môn học này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy logic. Phân môn Luyện từ và câu ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, phát triển óc phân tích, học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.

 Phân môn Luyện từ và câu không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp, vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Chính vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn Luyện từ và câu nên tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.

 

doc 16 trang thuychi01 21725
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THANH PHỐ THANH HÓA
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
 Người thực hiện: Lê Thị Hường
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 2
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2016 
I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Giáo dục Tiểu học là bậc học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển toàn diện về đức- trí- thể- mĩ. Đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác.
 Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Học thuộc lòng, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết...Mỗi môn đều có một chức năng khi dạy Tiếng Việt cho học sinh, đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. 
 Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và câu có có nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói - viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là: 
 + Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản về từ và câu.
 + Rốn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
 + Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt trong văn hóa giao tiếp.
 Phân môn Luyện từ và câu là môn học mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học, môn học này còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh (về từ ngữ, câu văn...) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ, giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương...Môn học này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy logic. Phân môn Luyện từ và câu ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, phát triển óc phân tích, học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.
 Phân môn Luyện từ và câu không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp, vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Chính vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân môn Luyện từ và câu nên tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy muốn dạy tốt có hiệu quả các tiết Luyện từ và câu ở lớp 4 người giáo viên phải nắm được mục đích, nội dung và phương pháp dạy học để giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Vì vậy, người thầy rất quan trọng trong quá trình truyền thụ kiến thức và tìm những biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp để giờ học trở nên nhẹ nhàng, chất lượng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Từ những thực tiễn áp dụng của bản thân và kết quả đạt được nên tôi chọn đề tài "Một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Học sinh lớp 4A1 trường Tiểu học Điện Biên 2 –TP Thanh Hóa.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Đọc và nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu có liên quan của phân môn Luyện từ và câu.
 Vận dụng một số phương pháp như: Phương pháp lí thuyết, phương pháp điều tra, phương pháp phỏng vấn, phương pháp trực quan,...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Phân môn Luyện từ và câu có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy học, giáo viên đóng vai trò tổ chức hoạt động, học sinh là chủ thể chủ động chiếm lĩnh kiến thức, mỗi học sinh đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình. Do đó, vấn đề dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng học tập của các em được nâng lên. Do đó, với mong muốn làm thế nào để chất lượng của học sinh lớp 4 ngày càng nâng cao thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học đó là “mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập”.
 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
 Qua quá trình quan sát, dự giờ việc dạy và học của thầy trò, của các đồng nghiệp trong thời gian trước đây tôi thấy có những nhận xét sau:
* Thuận lợi
 - Về phía giáo viên: Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới: “Thầy thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu phương pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câu. Đặc biệt, nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy. Lớp học được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất như: bàn ghế hợp quy chuẩn, bảng chống lóa, máy tính, máy chiếu, thiết bị chiếu sáng đầy đủ,...phục vụ cho việc dạy và học được đảm bảo. Giáo viên là người có tay nghề, có đầy đủ SGK, sách hướng dẫn, tài liệu chuẩn kiến thức và được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy...
 - Về phía học sinh:
 - Học sinh đã làm quen với cách học từ lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
 - Hầu hết các em học sinh đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập lại được sự quan tâm của phụ huynh, mua sắm cho con em các loại sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hướng dẫn tương đối đầy đủ cũng góp phần nâng cao chất lượng của môn học Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
* Khó khăn
 - Ai cũng cho rằng dạy phân môn Luyện từ và câu thường khô khan, khó truyền đạt được hết ý trong bài học, do đặc thù của môn học, nhất là trong cách tìm từ, giải nghĩa từ hay dùng từ đặt câu...khiến cho học sinh cũng phải tiếp thu bài một cách thụ động.
 - Giáo viên đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ, việc phân chia thời lượng lên lớp ở môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô trò có lúc thiếu nhịp nhàng, nặng tính hình thức.
 - Bên cạnh đó có một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình, còn có quan điểm “trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô giáo” cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của phân môn.
 - Trong lớp, trình độ của các em không đồng đều, có nhiều học sinh chưa thật sự chú trọng học môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Trong tư tưởng của các em và một số phụ huynh học sinh đều hướng cho con em học môn Toán nhiều hơn mà chưa thật sự chú trọng học môn Tiếng Việt, coi nhẹ môn Tiếng Việt, cho rằng các em chỉ cần đọc được, viết được là được. Chính vì vậy nhiều học sinh không hứng thú với môn học, thờ ơ với môn học và lệ thuộc vào các loại sách tham khảo, sách bồi dưỡng, sách bài tập có sẵn đáp án, không chịu khó học, không chịu khó suy nghĩ hay chú tâm vào môn học, nhất là đối với phân môn Luyện từ và câu, dẫn đến kết quả học tập các em chưa cao, do các em chưa thật sự hứng thú với môn học này.
 Qua khảo sát lần thứ nhất vào tuần 3 với bài Từ đơn và từ phức ở lớp 4A1, tôi nhận thấy rằng trong bài làm của học sinh còn mắc nhiều lỗi, cách phân biệt từ đơn, từ phức còn lúng túng, chưa rõ ràng, còn nhầm lẫn, chưa theo yêu cầu đề bài. Chính vì vậy chất lượng phân môn Luyện từ và câu thấp dẫn đến chất lượng các phân môn Tập đọc, Tập làm văn, Chính tả,...cũng thấp. 
 * Nguyên nhân của những tồn tại đó.
 - Vì cho rằng phân môn Luyện từ và câu là môn học khô khan, không gây được sự hứng thú với học sinh, bên cạnh đó sự tập trung của học sinh lại chưa bền vững, khả năng tập trung chưa cao, hay nóng vội cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng môn học.
 - Mặc dù học sinh có đủ sách vở học tập nhưng nhiều em không chịu học mà phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn.
 - Cha mẹ học sinh không kịp thời khuyến khích, động viên con em học tập. Đa số phụ huynh học sinh lại có nguyện vọng cho con học thiên về môn Toán nhiều hơn.
 - Bên cạnh đó còn một bộ phận học sinh do bị hổng kiến thức từ lớp dưới, do khả năng tiếp thu bài hạn chế, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên lớp.
 Từ những tồn tại nêu trên tôi đã rất băn khoăn và trăn trở, luôn suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng phân môn Luyện từ và câu. Mặc dù trong giảng dạy phân môn Luyện từ và câu có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Song khó khăn nào cũng có hướng giải quyết, thuận lợi nào đều có thể phát huy được. Vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và cùng trao đổi với một số đồng nghiệp trong tổ, trong trường để đưa ra phương pháp dạy học thích hợp tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học Luyện từ và câu. Được sự hỗ trợ và giúp đỡ của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy phù hợp với nhận thức của học sinh, nhằm giúp học sinh có hứng thú với môn học và nắm bắt bài một cách tốt hơn để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Các giải pháp thực hiện 
 a. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện từ và câu.
 Nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu gồm 62 tiết học, mỗi tuần học 2 tiết. Học kì I là 32 tiết, gồm 5 chủ điểm. Học kì II là 30 tiết gồm 5 chủ điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học một chủ đề tương ứng với từng chủ điểm đó.
 b. Yêu cầu kiến thức
 - Mở rộng và hệ thống hòa vốn từ : môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hóa 10 chủ điểm đó.
- Trang bị kiến thức giảng dạy về từ và câu.
* Từ - Cấu tạo tiếng : - Cấu tạo từ : Từ đơn, từ ghép và từ láy.
 - Từ loại : Danh từ, động từ, tính từ.
* Các kiểu câu : Câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm.
* Các dấu câu : Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn.
c. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu
+ Từ:
 - Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
 - Giải các câu đố liên quan đến cấu tạo của tiếng.
 - Nhận biết từ loại.
 - Đặt câu với từ đã cho.
 - Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ - Tục ngữ.
+ Câu:
 - Nhận biết các kiểu câu.
 - Đặt câu theo mẫu.
 - Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
 - Thêm trạng ngữ cho câu.
 - Tác dụng của dấu câu.
 - Điền dấu câu thích hợp.
+ Dạy Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp:
 Thông qua nội dung dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa.
 - Chữa lỗi dấu câu.
 - Lựa chọn kiểu câu, kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt được cũng như là nhiệm vụ mà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn này.
 d. Nắm vững quy trình dạy Luyện từ và câu ở lớp 4
 Cách dạy theo 2 dạng bài lí thuyết và bài thực hành.
 e. Vận dụng một số phương pháp dạy học khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4. 
 + Phương pháp vấn đáp
 Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước một để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học.
 Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ, tư duy sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
 Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng học sinh 
trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau đó cho học sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả hai loại bài lí thuyết và thực hành.
 VD: Khi dạy bài Danh từ (tuần 5) mục đích của bài là học sinh phải nắm được Danh từ là gì?- Biết tìm danh từ trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó.
- Giáo viên đưa ra ví dụ: Mang theo truyện cổ tôi đi
 Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
 Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
 Đời cha ông với đời tôi
 Như con sông với chân trời đã xa
 Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
 (Lâm Thị Mỹ Dạ)
+ H: Em hãy tìm những từ chỉ sự vật trong đoạn thơ?
Dòng 1: Truyện cổ Dòng 5: Đời, cha ông
Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa Dòng 6: Con sông, chân trời
Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa Dòng 7: Truyện cổ
Dòng 4: Con sông, rặng dừa Dòng 8: Ông cha.
+ H: Hãy sắp xếp các từ vừa tìm được vào từng nhóm sau cho thích hợp:
- Từ chỉ người: Ông cha- Cha ông
- Từ chỉ vật: sông, dừa, chân trời.
- Từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng
- Từ chỉ khái niệm : Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời.
- Từ chỉ đơn vị : Cơn, con, rặng.
+ H : Những từ đó thuộc loại từ gì? (Danh từ)
+ H: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị).
 Như vậy, qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em hình thành một khái niệm ngữ pháp mà nội dung của bài đề ra.
 Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. 
 + Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
 Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là cách mà giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vần đề, tự giác hoạt động, trực tiếp chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng.
 Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lí thuyết vào giải quyết vấn đề của thực tiễn. Nâng cao kĩ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề. 
 Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài học, đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà học sinh đưa ra.
 VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ:“Đồ chơi - Trò chơi”(tuần 16). Giáo viên đưa ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: “Chơi với lửa”, “Ở chọn nơi, chơi chọn bạn”, “Chơi diều đứt dây”, “Chơi dao có ngày đứt tay”, hãy chọn câu thành ngữ, tục ngữ thích hợp để khuyên bạn:
Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi.
b- Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ mình gan dạ.
- Với tình huống (a) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ: “Ở chọn nơi, chơi chọn bạn”. Nhưng với tình huống (b) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ tục ngữ như:“Chơi với lửa” hoặc “Chơi dao có ngày đứt tay” đều được.
 *Tóm lại: Với phương pháp này người giáo viên cần hiểu rằng trong từng tình huống cụ thể sẽ có nhiều cách giải quyết hay, thích hợp để học sinh có thể ứng dụng vào trong học tập, trong cuộc sống.
 + Phương pháp trực quan.
 Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên có sử dụng các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách thuận lợi. Thu hút 
sự chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện mối liên hệ của các đơn vị kiến thức.
 Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt.
 VD: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ:Đồ chơi – Trò chơi” (tuần 15) giáo viên đưa ra 6 bức tranh trong SGK Tiếng Việt 4 tập 1 (trang 147) để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi – trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học.
 Bức tranh 1: HS tìm từ chỉ đồ chơi: Diều – Trò chơi: thả diều.
Bức tranh 2: đồ chơi: đèn ông sao, trống cơm, đầu sư tử – trò chơi: múa lân, rước đèn, đánh trống.
 Bức tranh 3: đồ chơi: dây, nồi (xoong), bộ xếp hình, búp bê – trò chơi: nhảy dây, nấu ăn, cho bé ăn bột
Bức tranh 4: đồ chơi: máy tính, bộ xếp hình – trò chơi: điện tử, xếp hình.
Bức tranh 5: đồ chơi: dây thừng – trò chơi: kéo co.
Bức tranh 6: đồ chơi: khăn – trò chơi: bịt mắt bắt dê
Qua bài học này các em cũng thấy được những trò chơi nào có lợi, những trò chơi nào có hại, nên tránh. 
 *Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng giải khi dạy phân môn Luyện từ và câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác được triệt để các kênh hình của bài học, nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài một cách tốt hơn.
 + Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
 Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể qua đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo mẫu và thực hiện theo mẫu.
 Phương pháp rèn luyện theo mẫu giúp học sinh có điểm tựa để làm bài, đặc biệt là với học sinh chưa ham học, còn đối với học sinh nắm được bài không bắt buộc phải theo mẫu để học sinh có thể phát huy được tính tích cực chủ động. 
 + Phương pháp phân tích.
 Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra bài học. Giúp học sinh tìm tòi, huy động vốn kiến thức cũ của mình để tìm ra kiến thức mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức thể hiện).
VD: Khi dạy bài “Câu hỏi và dấu chấm hỏi” (tuần 13), tiến hành như sau:
Bước 1: Cho học sinh tìm ra các câu hỏi trong bài tập đọc “Người tìm đường lên các vì sao”. Các em sẽ tìm được 2 câu:
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Bước 2: Phân tích:
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi- ôn- cốp - xki hỏi mình)
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi- ôn- cốp- xki hỏi)
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi? (Cuối câu có dấu chấm hỏi)
Giáo viên nêu: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi.
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra được bài học:
1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết.
VD: - Có phải trái đất quay xung quanh mặt trời không?
 - Bạn Hoa là lớp trưởng lớp 4A1 à?
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác nhưng cũng có những câu để tự hỏi mình.
VD: - Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ?
 - Vì sao Trái Đất lại quay nhỉ?
3. Câu hỏi thường có các từ nghi vấn (có phải, không, phải không, à,). Khi viết cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?).
VD: - Bạn đã học bài rồi à?
 - Chú bé đất trở thành chú Đất Nung phải không?
Tóm lại, trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong phân môn Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh - mặt yếu của nó. Mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như vậy tiết học mới đạt kết quả tốt.
 * CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
 Để có thể thực hiện các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện từ và câu theo chuẩn kiến thức và kĩ năng của bộ giáo dục, tôi mạnh dạn đề ra một số biện pháp thực hiện dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 như sau:
 Biện pháp thứ nhất: Phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học.
 Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng Tiếng Việt văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó giáo viên cần bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh, học sinh cần có ý thức học tập đúng đắn. 
 Trước hết, đó là cách làm giúp cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học để tạo động cơ học tập. Cho nên ở mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng đến việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu chính là dạy cho các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra một số thủ pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các em, đó chính là các trò thi đố, các trò chơi để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học, giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán.
 Bên cạnh đó ngườ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_phan_mon.doc