SKKN Một số kinh nghiệm dạy Toán bằng phương pháp bản đồ tư duy cho học sinh lớp 4
Mục tiêu giáo dục hiện nay là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu về sự phát triển các kĩ năng cơ bản như đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ. Góp phần hình thành nhân cách con gười Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và ý thức trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học những bậc học cao hơn. Việc kết hợp học và hành, kết quả giảng dạy với đời sống thực tiễn được thực hiện thông qua việc cho học sinh nắm vững kiến thức, liên kết với cuộc sống thích hợp sẽ gúp học sinh hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày.
Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học đó, môn Toán có vị trí quan trọng vì:
- Các kiến thức kĩ năng của môn Toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, chung rất cầ thiết trong việc học các môn học khác
- Môn Toán giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và không gian của thế giới hiện thực, một số mặt của thế giới xung quanh đồng thời biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống.
- Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn tư duy phương pháp suy luận . phương pháp giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo, nó đóng góp cho việc hình thành các phẩm chất cần thiết của người lao động.
A . MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài Mục tiêu giáo dục hiện nay là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu về sự phát triển các kĩ năng cơ bản như đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ. Góp phần hình thành nhân cách con gười Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và ý thức trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học những bậc học cao hơn. Việc kết hợp học và hành, kết quả giảng dạy với đời sống thực tiễn được thực hiện thông qua việc cho học sinh nắm vững kiến thức, liên kết với cuộc sống thích hợp sẽ gúp học sinh hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học đó, môn Toán có vị trí quan trọng vì: - Các kiến thức kĩ năng của môn Toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, chung rất cầ thiết trong việc học các môn học khác - Môn Toán giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và không gian của thế giới hiện thực, một số mặt của thế giới xung quanh đồng thời biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. - Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn tư duy phương pháp suy luận . phương pháp giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo, nó đóng góp cho việc hình thành các phẩm chất cần thiết của người lao động. Trong khi đó đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi ở tiểu học việc ghi nhớ của các em chủ yếu là ghi nhớ trực quan, máy móc thiếu ổn định bền vững và đặc biệt các em thường ghi nhớ bộ phận mà không nhớ tổng quát. Đặc biệt đối với học sinh những vùng giáo dục gặp nhiều khó khăn. Những tồn tại trên cũng do một phần ở cách dạy của giáo viên. Giáo viên mới dạy một cách máy móc, thụ động và mang tính dàn trải chưa giúp học sinh hiểu sâu sắc về bản chất của môn học. Vì vậy số lượng học sinh hứng thú học rất hạn chế, không những thế các em còn có tâm lí chán nản khi học. “Bản đồ tư duy” còn gọi là “Sơ đồ tư duy”, “Lược đồ tư duy”, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng “Bản đồ tư duy” theo một cách riêng, do đó việc lập “Bản đồ tư duy” phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20) bởi Tony Buzan như là một cách để giúp học sinh "ghi lại bài giảng" mà chỉ dùng các từ then chốt và các hình ảnh. Cách ghi chép này sẽ nhanh hơn, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Xác định được vấn đề này, bản thân tôi luôn nghĩ rằng làm thế nào để có những giờ học sôi nổi, sinh động thu hút được học sinh, làm thế nào để học sinh nắm vững , nhớ lâu nội dung kiến thức của từng dạng bài và của cả mạch kiến thức. Xuất phát từ những bất cập nêu trên bản thân tôi đã sử dụng nhiều phương pháp để giải quyết. Song các phương pháp đó đều đưa lại hiệu quả không cao. Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu áp dụng phương pháp “ Bản đồ tư duy” vào dạy các bài ở môn Toán lớp 4B tôi thấy kết quả rất tốt vì vậy tôi đã chọn đề tài : " Một số kinh nghiệm dạy Toán bằng phương pháp bản đồ tư duy cho học sinh lớp 4.” 2. Mục đích nghiên cứu. Từ thực trạng nêu trên, sau khi tìm hiểu về các phương pháp dạy học theo hướng tích cực tôi thấy đây là một phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm phù hợp với đối tượng học sinh lớp 4B Trường tiểu học Quảng Hưng nên tôi đã chọn để nghiên cứu, áp dụng vào trong quá trình dạy học với mong muốn khắc phục được những hạn chế mà lâu nay vẫn tồn tại. Giúp học sinh nắm vững, nhớ lâu nội dung kiến thức của từng dạng bài và của cả mạch kiến thức môn Toán lớp 4. Đồng thời làm tài liệu cho đồng nghiệp tham khảo trong quá trình dạy học. Đối tượng nghiên cứu. Với đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp bản đồ tư duy vào dạy học môn Toán cho học sinh lớp 4B Trường Tiểu học Quảng Hưng và tổng kết một số kinh nghiệm trong quá trình vận dụng của mình. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin 4.2. Nghiên cứu tài liệu xây dựng cơ sở lí thuyết 4.3. Phương pháp Thực nghiệm. 4.4. Phương pháp thống kê xử lí số liệu. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận. Nói đến “ Bản đồ tư duy” trước hết ta phải hiểu: Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não. Cơ chế hoạt động của “ Bản đồ tư duy” chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). “ Bản đồ tư duy” là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,.. Phương pháp này có lẽ đã được nhiều người Việt biết đến nhưng nó chưa bao giờ được hệ thống hóa và được nghiên cứu kĩ lưỡng và phổ biến chính thức trong nước mà chỉ được dùng tản mạn trong giới sinh viên học sinh trước các mùa thi. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn. Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ hỗ tương giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn. Ví dụ: Hình chữ nhật Tìm chu vi hình chữ nhật Tìm diện tích hình chữ nhật Tìm chiều dài,rộng hình chữ nhật Những vật có dạng hình chữ nhật mà em biết H1. Kiến thức về hình chữ nhật 1.1.Vị trí, nhiệm vụ của môn Toán. Trong chương trình sách giáo khoa Toán lớp 4 hệ thống các bài có thể sử dụng " Bản đồ tư duy" là những bài luyện tập hoặc những bài có liên quan đến kiến thức tổng hợp. - Luyện tập giúp học sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố kiến thức và rèn kĩ năng đã học. -Thông qua luyện tập rèn luyện, hình thành và phát triển cho học sinh các năng lực tư duy, giải thích tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, suy diễn logic. - Luyện tập giúp các em tập dượt việc áp dụng các kĩ năng vào trong một tình huống thực tế quen thuộc. -Thông qua luyện tập toán để hình thành phát triển ngôn ngữ chung cũng như thuật ngữ riêng. Hoạt động luyện tập giúp cho học sinh dần dần hình thành thói quen làm việc khoa học, tính độc lập, tích cực tư duy, tính chuẩn xác, tính trung thực. 1.2. Nội dung Toán 4. Trong chương trình Toán 4 các bài luyện tập chiếm một số lượng đáng kể và chủ yếu tập trung ở các dạng sau: *. Số học. *.Các yếu tố hình học. *.Thống kê số liệu. 2. Thực trạng học toán của học sinh lớp 4 tại Trường Tiểu học Quảng Hưng: Hiện nay trong dạy học hiện tượng đọc chép vẫn phổ biến trong khi đó giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “Đọc – chép”. Do đó, “Đọc” thế nào và học sinh “Chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “Chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp. * Đối với giáo viên: Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. *Đối với học sinh: Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “Đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “Cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “Đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt Khắc phục tình trạng Đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc chống dạy học theo kiểu “Đọc – chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả. Vì vậy trong quá trình dạy học tôi nhận thấy một số vấn đề cần quan tâm xuất phát từ điều kiện thực tế của đơn vị. 2.1. Thuận lợi - Bộ Giaó dục và Đào tạo giảm tải nội dung sách giáo khoa tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc dạy và học hơn nững năm qua. - Qua quá trình học Bồi dưỡng thường xuyên và những năm qua đã soạn giảng khá tốt giáo án điện tử nên có thuận lợi hơn khi áp dụng đề tài hướng dẫn học sinh bậc tiểu học thực hiện ghi bài theo sơ đồ tư duy. - Học sinh các lớp Trường tiểu học Quảng Hưng bước đầu đã được làm quen với cách ghi bài theo chương trình mới. - Một số phần mềm sơ đồ tư duy được phổ biến rộng rãi nên đã hỗ trợ cho giáo viên và học sinh khi trình bày sơ đồ tư duy trên máy chiếu. 2.2. Khó khăn. Khi dự giờ các tiết dạy giáo viên còn theo phương pháp truyền thống, hầu như đa số giáo viên của các trường tiểu học đều chưa giảng dạy học sinh theo phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào trong một tiết dạy và nhận xét. Giáo viên ở các trường tiểu học không hướng dẫn kỹ cách thực hiện cho học sinh và chưa nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học theo phương pháp mới này nên tôi phải cho học sinh lớp 4 xem phim minh họa, hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy lại từ đầu. Qua tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Toán ở trường tiểu học hiện nay tôi thấy có một số vấn đề như sau: * Ưu điểm. Hiện nay trong các nhà trường nói chung ,trường tiểu học nói riêng lấy phương châm: " Dạy học lấy học sinh làm trung tâm" để thực hiện, vì vậy trong dạy học toán đã thể hiện được những tư tưởng đó cụ thể : - Giáo viên đã dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa và các dạng bài tập. - Trong giờ học giáo viên biết vận dụng nhiều hình thức tổ chức, tạo không khí lớp học sôi nổi. -Tạo được phương pháp tự kiểm tra, đánh giá của học sinh. * Nhược điểm. Giáo viên và học sinh đều phụ thuộc vào yếu tố sẵn có của sách giáo khoa. -Trong dạy học toán giáo viên chưa kết hợp các phương pháp một cách khoa học nên chưa phát huy được hiệu quả của việc dạy học. -Nhiều bài tập trong sách giáo khoa trùng lặp giáo viên chỉ giao về nhà hoặc tự cho học sinh giải một cách máy móc. Giáo viên tường dập khuôn theo bài giải sẵn có. - Đối với những bài điển hình giáo viên chỉ chú ý làm sao cho học sinh giải được các bài toán cụ thể trong sách giáo khoa chứ chưa chú ý đến việc phát triển toàn diện dạng toán đó bằng cách cho học sinh tự đặt đề toán hay tìm nhiều cách giải.. - Giáo viên chưa khắc sâu và mở rộng đối với từng dạng bài đặc biệt là những bài mang tính khái quát, ôn tập. Bảng khảo sát trước khi áp dụng phương pháp “ Bản đồ tư duy”. Bảng 1 Lớp Số HS tham gia HS Ghi nhớ tốt HS Ghi nhớ đầy đủ HS Ghi nhớ cơ bản HS Ghi nhớ chưa đầy đủ SL TL SL TL SL TL SL TL 4A 34 5 14.7 10 29.4 14 41.2 5 14.7 4B 34 6 17.6 10 29.4 15 44.2 3 8.8 3.Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề. 3.1. Hướng dẫn học sinh cách lập “Bản đồ tư duy”. Bước 1. Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Tại sao lại phải dùng hình ảnh? Vì một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp bạn sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp chúng ta tập trung được vào chủ đề và làm cho chúng ta hưng phấn hơn. Bước 2. Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích các cơ quan như mắt và đặc biệt là kích thích sự hoạt động của não. Bước 3. Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một, nối các nhánh cấp ba đến nhánh cấp hai,. bằng các đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần hình ảnh trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, bạn sẽ hiểu và nhớ nhiều thứ hơn rất nhiều do bộ não của chúng ta rất nhiều dưới nhiều hình thức và hơn cả là sự liên tưởng Bước 4. Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ Bước 5. Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,) Bước 6.Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều Bước 7. Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm AI ? CÁI GÌ ? CON GÌ? THẾ NÀO ? TẠI SAO ? KHI NÀO ? ? H2. Mô hình tổng quát của bản đồ tư duy 3.2. Hướng dẫn học sinh thực hành trên tiết học. Hoạt động 1: Lập “ Bản đồ tư duy”. Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho học sinh lập“ Bản đồ tư duy” theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý: tìm trong thực tế các vật có liên quan đến nội dung bài, viết những tính chất , nhận dạng mà em đã biết về vật đó , thử nêu định nghĩa, dấu hiệu nhận biết theo cách hiểu của em, Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về “ Bản đồ tư duy”. Cho một vài học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về “ Bản đồ tư duy” mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh nước ta hiện nay. Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa,hoàn thiện “ Bản đồ tư duy”. Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện về kiến thức của mình. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh “ Bản đồ tư duy” về nội dung bài, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một “ Bản đồ tư duy”. Giáo viên cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức hình chữ nhật thông qua một do giáo viên đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc “ Bản đồ tư duy” mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. giáo viên có thể giới thiệu“ Bản đồ tư duy” sau đây (vì“ Bản đồ tư duy” là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có chung 1 kiểu “ Bản đồ tư duy”, giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức- nếu cần). Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với “ Bản đồ tư duy” : Hoạt động 1: Học sinh lập “ Bản đồ tư duy” theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên. Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về “ Bản đồ tư duy” mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện “ Bản đồ tư duy” về kiến thức của bài học đó.giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh “ Bản đồ tư duy”, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một “ Bản đồ tư duy” mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một “ Bản đồ tư duy” mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Hoạt động 5: Mở rộng cho học sinh bằng các kiểu của Bản đồ tư duy cho các môn học khác hay dạng bài khác nhau nếu có thể Ví dụ: H3. Nhận biết hình chữ nhật. Cái mâm Bán kính Bánh xe HÌNH TRÒN Đường tròn Mặt trăng đêm rằm Đường kính H 4 . Học hình tròn. Cái bánh chưng Tính chu vi Số cạnh HÌNH VUÔNG Tính diện tích Tìm số đo của cạnh H 5. Học hình vuông. Lưu ý: - “ Bản đồ tư duy” là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu, giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần). - Các “ Bản đồ tư duy” giới thiệu trong bài viết này đều có nhiều màu sắc (chữ thuộc nhánh nào thì cùng màu với nét vẽ của nhánh đó). Tuy nhiên, do điều kiện in nên tất cả chỉ có màu đen. - Sử dụng “ Bản đồ tư duy” sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, “ Bản đồ tư duy” giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi học sinh tự thiết lập “ Bản đồ tư duy” kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Sau khi tiến hành dạy thưc nghiệm ở lớp 4A và 4B với cùng một số bài, thời gian như nhau, bằng 2 phương pháp khác nhau: Lớp 4B bằng phương pháp “ Bản đồ tư duy”, lớp 4A bằng phương pháp truyền thống, kết quả thu được như sau : Bảng 2 Lớp T.số HS tham gia HS Ghi nhớ tốt HS Ghi nhớ đầy đủ HS Ghi nhớ cơ bản HS Ghi nhớ chưa đầy đủ SL TL SL TL SL TL SL TL 4A 34 6 17.6 12 35.3 14 41.2 2 5.9 4B 34 12 35.3 16 47.1 6 17.6 0 0 Qua nghiên cứu và dạy thực nghiệm tôi thấy hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm như sau: 4.1. Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh tiểu học, học sinh được thể hiện mình và những kiến thức mình có. 4.2. Giáo viên dễ kiểm soát kiến thức tổng quát của học sinh 4.3. Tạo được hứng thú trong cho học sinh. 4.4. Học sinh được thỏa sức sáng tạo theo ý của mình. 4.5. Giúp các em hoạt động theo nhóm thuận lợi. 4.6. Học sinh khái quát và nắm vững hệ thống kiến thức một cách bền vững. C. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT 1. Kết luận. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số tiết luyện tập cho thấy, sử dụng “ Bản đồ tư duy” trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên “ Bản đồ tư duy”), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Gần đây, sau một số đợt tập huấn của các dự án , nhiều giáo viên đã áp dụng thành công dạy học với việc thiết kế “ Bản đồ tư duy”. Có thể kể đến một số trường tham gia dự án sau khi được tập huấn về đổi mới Phương pháp dạy học (trong đó có nội dung thiết kế, sử dụng “ Bản đồ tư duy” ) đã triển khai và bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các sinh hoạt ở tổ chuyên môn cũng như hoạt động dạy học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_day_toan_bang_phuong_phap_ban_do_tu.doc