SKKN Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 - Ở trường THCS Phúc Thịnh

SKKN Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 - Ở trường THCS Phúc Thịnh

Trong quá trình đổi mới giáo dục cấp THCS nói chung và môn Ngữ văn nói riêng, mục tiêu, nội dung giáo dục đã được đổi mới, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội đang phát triển. Người thầy đã và đang vận dụng những phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh học tốt và yêu thích môn Ngữ văn. Trong những năm học gần đây giáo viên được tiếp thu các chuyên đề: Đổi mới kiểm tra đánh giá; Dạy học bám chuẩn kiến thức- kĩ năng; Các phương pháp/ kĩ thuật dạy học tích cực; Tích hợp giáo dục các kĩ năng sống. Đặc biệt, từ năm học 2013-2014 đến nay, bản thân giáo viên có tài liệu tham khảo để tự học bồi dưỡng thường xuyên, mô đun 18( phương pháp dạy học tích cực) là những định hướng để người dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

 Ở trường THCS, làm văn là phân môn khó, là một phân môn thực hành tổng hợp và sáng tạo, đòi hỏi học sinh phải huy động, vận dụng tất cả những gì mà các em đã biết từ môn khác chứ không chỉ mình môn Ngữ văn. Vì thế, các em luôn cảm thấy bài làm văn là một gánh nặng chứ không phải là một niềm vui sáng tạo, một sự đam mê văn chương. Chương trình Tập làm văn lớp 7 đặt trọng tâm ở thực hành, nhận biết, làm văn bản, làm văn nghị luận là một kỹ năng cơ bản, cần thiết và quan trọng ảnh hưởng đến việc học văn của các em sau này. Đây còn là khâu quan trọng để học sinh có nền tảng về: Vốn sống, vốn hiểu biết và khả năng tư duy, cảm thụ văn học. Trong hệ thống kỹ năng làm văn nghị luận, có

doc 20 trang thuychi01 10195
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 - Ở trường THCS Phúc Thịnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
 A. MỞ ĐẦU
1
I. Lí do chọn đề tài
II.Mục đích nghiên cứu
III.Đối tượng nghiên cứu
2
IV.Phương pháp nghiên cứu
2
 B. NỘI DUNG
3
 I. Cơ sở lí luận
3
 II.Thực trạng vấn đề nghiên cứu
4
 1.Thực trạng
4
2. kết quả của thực trạng
5
 3. Nguyên nhân của thực trạng
5
 III. Các Giải pháp thực hiện
6
 1.Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm chung của văn nghị luận.
6
 2. Rèn cho học sinh nắm vững yêu cầu, bố cục của bài văn nghị luận giải thích.
7
3. Định hướng cho học sinh các phương pháp, kĩ năng làm bài văn giải thích.
9
 3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi trong bài văn nghị luận giải thích.
9
 3.2. Rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận giải thích.
11
 3.2.1. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý : 
12
 3.2.2. Rèn kĩ năng lập dàn ý cho bài văn lập luận giải thích.
12
 3.2.3. Rèn kĩ năng dựng đoạn cho bài văn lập luận giải thích.
14
 3.2.4. Rèn kĩ năng đưa dẫn chứng trong bài văn lập luận giải thích.
15
IV. Hiệu quả
16
3
 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
I. Kết luận
18
II. Kiến nghị
18
A. MỞ ĐÂU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Trong quá trình đổi mới giáo dục cấp THCS nói chung và môn Ngữ văn nói riêng, mục tiêu, nội dung giáo dục đã được đổi mới, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội đang phát triển. Người thầy đã và đang vận dụng những phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh học tốt và yêu thích môn Ngữ văn. Trong những năm học gần đây giáo viên được tiếp thu các chuyên đề: Đổi mới kiểm tra đánh giá; Dạy học bám chuẩn kiến thức- kĩ năng; Các phương pháp/ kĩ thuật dạy học tích cực; Tích hợp giáo dục các kĩ năng sống. Đặc biệt, từ năm học 2013-2014 đến nay, bản thân giáo viên có tài liệu tham khảo để tự học bồi dưỡng thường xuyên, mô đun 18( phương pháp dạy học tích cực) là những định hướng để người dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
 Ở trường THCS, làm văn là phân môn khó, là một phân môn thực hành tổng hợp và sáng tạo, đòi hỏi học sinh phải huy động, vận dụng tất cả những gì mà các em đã biết từ môn khác chứ không chỉ mình môn Ngữ văn. Vì thế, các em luôn cảm thấy bài làm văn là một gánh nặng chứ không phải là một niềm vui sáng tạo, một sự đam mê văn chương. Chương trình Tập làm văn lớp 7 đặt trọng tâm ở thực hành, nhận biết, làm văn bản, làm văn nghị luận là một kỹ năng cơ bản, cần thiết và quan trọng ảnh hưởng đến việc học văn của các em sau này. Đây còn là khâu quan trọng để học sinh có nền tảng về: Vốn sống, vốn hiểu biết và khả năng tư duy, cảm thụ văn học. Trong hệ thống kỹ năng làm văn nghị luận, có thể nói hành văn là khâu then chốt của bài làm văn.
 Tuy vậy, khi trực tiếp nghiên cứu và thực hiện các đơn vị bài học trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn theo quy định của Bộ giáo dục, đôi khi người dạy gặp không ít khó khăn, trong đó có việc hướng dẫn cách làm và rèn kỹ năng hành văn nghị luận cho học sinh THCS. Điều đó cho thấy, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu các biện pháp hình thức nhằm rèn luyện và phát triển kỹ năng hành văn nghị luận cho học sinh đã và đang trở thành một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
 Đặc biệt, tạo lập một văn bản nghị luận thật sự khó đối với học sinh THCS nói chung, học sinh lớp 7 nói riêng. Phân môn Tập làm văn là môn học sáng tạo chứ không phải sao chépLà môn học tích hợp kiến thức của các môn học khác và kiến thức của cuộc sống, là môn tổng hợp các kĩ năng (kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng trình bày và tạo lập văn bản). Để học sinh tạo lập một văn bản nghị luận nói chung và nghị luận giải thích nói riêng tốt thì theo tôi nghĩ càng khó hơn với các em. Đây có lẽ là một trong những cụm bài khó nhất của chương trình ngữ văn 7, kể cả cụm bài thơ Đường. Thử thách này đòi hỏi cả thầy và trò phải cố gắng hơn nhiều và tự tìm những giải pháp nhất định, đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học.
 Chọn đề tài: Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7- ở trường THCS Phúc Thịnh, tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ hiểu biết và công sức của mình vào việc nâng cao chất lượng làm văn của học sinh, tiến tới nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường THCS.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Với đề tài: Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7- ở trường THCS Phúc Thịnh, tôi mong muốn nâng cao kết quả học tập, chất lượng làm văn nghị luận của học sinh. Khi đưa đề tài này vào trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở nhà trường THCS, học sinh sẽ hứng thú hơn, hiệu quả giáo dục của bộ môn sẽ được nâng cao. 
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, đối tượng tôi lựa chọn ngiên cứu là Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7- ở trường THCS Phúc Thịnh. Hy vọng đề tài này sẽ trở thành tài liệu hữu ích giúp giáo viên và học sinh đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giảng dạy và học tập.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Giáo viên đọc tài liệu tham khảo, sách giáo khoa, biên soạn đề cương, sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học. Đồng thời kết hợp một số phương pháp đặc trưng bộ môn: - Phương pháp phân tích.
 	- Phương pháp gợi mở- nêu vấn đề.
 	- Phương pháp giải thích, chứng minh
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: 
 Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy và học trong nhiều trường phổ thông vẫn còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi cử, “chạy theo thành tích” học để thi, dạy để thi.
 Ở mỗi quốc gia, mục tiêu giáo dục thường được thay đổi theo từng giai đoạn phát triển. Ở nước ta, mục tiêu giáo dục với quan điểm giáo dục toàn diện, chú trọng bốn mặt: trí, đức, thể, mĩ nhằm đào tạo những người lao động mới có khả năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế mục tiêu giáo dục đã dược cụ thể hóa và bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
 Hiện nay, đã có nhiều tài liệu và người dạy chú tâm đến phương pháp và các kĩ thuật dạy học tích cực. Hiện nay, giáo viên môn Ngữ văn luôn tìm cách để “thổi” vào các em học sinh một thái độ học tập tích cực, kinh nghiệm rèn kĩ năng cho học sinh với những đề tài viết về phân môn Tiếng Việt hoặc phần Văn. Đa số giáo viên đã có những sáng kiến mới để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh nhưng lại chủ yếu ở lớp 9. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 7 rất cần thiết bởi đây là bước khởi đầu. Thế nhưng, người dạy mới đưa ra các giải pháp chung để hướng dẫn học sinh làm kiểu văn này mà chưa thật chú trọng, quan tâm nhiều đến kiểu bài làm văn giải thích ở lớp 7. Đặc biệt, việc định hướng, rèn rũa cho học sinh trong giờ dạy, giờ ôn tập về yêu cầu phương pháp làm bài văn nghị luận giải thích trong giờ Tập làm văn là vấn đề ít được áp dụng trong thực tiễn, chưa được quan tâm nhiều. Xét từ thực tế cho thấy nghị luận đưa vào chương trình ngữ văn 7 là hơi sớm và khó. Nhưng do sự phát triển của xã hội hiện nay rất cần đến sự hiểu biết của các em, nên kiểu bài này chính thức đưa vào chương trình. Bài mở đầu về nghị luận giúp các em tìm hiểu chung về văn bản nghị luận với những đặc điểm và cách thức trình bày. Vì vậy giáo viên phải giảng giải rõ cho các em hiểu về nghị luận theo cách giản đơn nhất.
 Với đề tài này, người viết tập trung đưa ra các giải pháp cụ thể trong những giờ dạy Tập làm văn về kiểu bài nghị luận giải thích. Đó là những biện pháp hướng dẫn học sinh nắm vững bản chất, yêu cầu, phương pháp của bài văn nghị luận giải thích. Người dạy rèn một số kĩ năng cơ bản cho học sinh làm tốt kiểu bài nghị luận giải thích. Bước đầu nâng cao chất lượng môn học, dần dần cải thiện những tồn tại trong cách làm bài văn nghị luận của học sinh.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng:
 Luyện làm văn nghị luận là một vấn đề cần được chú trọng rèn luyện cho học sinh lớp 7, 8, 9. Các em có một chuỗi bài kiểm tra trong khối THCS về văn nghị luận. Vì vậy, vai trò của người giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng hành văn nghị luận cho các em từ lớp 7 là rất quan trọng, đòi hỏi giáo viên phải thực sự có tình yêu, tâm huyết với nghề. 
Tuy nhiên thực tế việc rèn kỹ năng hành văn nghị luận ở các nhà trường THCS, nhất là ở lớp 7, vấn đề này chưa được coi trọng và quan tâm đúng mức.
+ Về học sinh: Lần đầu tiên các em được làm quen với văn nghị luận và là kiểu bài văn khó, nặng đối với học sinh lớp 7. Các em phải học nhiều môn và chỉ chú trọng việc học trên lớp cho xong chương trình. Việc chuẩn bị cho giờ luyện nói, luyện tập lập luận học sinh thường chuẩn bị sơ sài, hời hợt, chỉ mang hình thức đối phó.
Mỗi khi nhận đề kiểm tra, học sinh còn lúng túng những lúc đó các em thường dựa dẫm, lệ thuộc vào tài liệu tham khảo mà không chú ý đề văn đó yêu cầu như thế nào.
Ở bài làm văn của các em còn lan man, chưa biết xác định luận điểm chính, chưa biết chia đoạn và lập luận cho bài văn, dẫn chứng chưa sát với yêu cầu đề bài. Đặc biệt, bài văn nghị luận giải thích của học sinh chưa có sức thuyết phục vì các em chưa nắm được bản chất, phương pháp giải thích.
Hiện nay, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn đổi mới đã chú ý đến tiết luyện tập, điều này, tạo cho học sinh khả năng lập ý, lập luận ở nhà. Nhưng việc chuẩn bị bài của học sinh chỉ qua loa, chiếu lệ. Đến lớp giáo viên lại phải dành thời gian định hướng lại cách lập ý cho học sinh, chưa có nhiều thời gian để rèn kĩ năng, hướng dẫn học sinh thực hành nên mục tiêu dạy học chưa được đáp ứng.
 + Về giáo viên: Người dạy chưa chú trọng đến việc luyện viết cho học sinh. Thông thường, giáo viên nghĩ: Học sinh làm văn nghị luận yếu là do khó, có thể tiến bộ dần ở lớp 8, 9 và để đó.
Trên thực tế, ở địa bàn nông thôn và miền núi, do điều kiện chủ quan và khách quan, khả năng làm bài văn nghị luận của các em còn nhiều hạn chế. Thực tế giảng dạy tôi thấy: Chỉ được 30% học sinh biết triển khai, giải thích, lập luận vấn đề nghị luận, viết đúng yêu cầu về nội dung và hình thức. Số còn lại, các em viết sơ sài, lủng củng, có bài viết rất dài thì sa vào lan man, nhớ gì viết nấy. Nguyên nhân sâu xa là các em chưa có ý thức suy ngẫm, liên hệ, giải thích vấn đề nghị luận.
2. Kết quả của thực trạng:
Kết quả chấm bài Tập làm văn số 6 (văn nghị luận giải thích) khối 7 trường THCS Phúc Thịnh năm học 2014- 2015 và 2015 - 2016 như sau:
Năm học
Số học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2014-2015
 43
0
0
5
11,6
30
69,4
8
19
2015-2016
 41
0
0
7
18
25
60
9
22
Tổng
84
0
0
12
15
55
65
17
20
 3. Nguyên nhân của thực trạng
- Về phía giáo viên:
 + Ở các tiết học tập làm văn, giáo viên thường tiến hành các hoạt động một cách dập khuôn: kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố, dặn dò. Cách lên lớp này đôi khi gây sự căng thẳng cho học sinh, chưa tạo được tâm thế chủ động, vận dụng kiến thức thực tế cho các em.
 + Thông thường giáo viên cho rằng phần làm văn nghị luận là khó nên chỉ cần dạy theo kiểu khai thác câu hỏi trong sách giáo khoa là xong. Giáo viên còn nặng về dạy lí thuyết, ít quan tâm đến thực hành. Cách nghĩ, cách dạy như vậy khiến tiết học nặng nề, nhàm chán.
 + Cơ sở vật chất, tài liệu môn học, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và bổ sung kiến thức cho học tập môn văn nói chung và tập làm văn nói riêng còn hạn chế, đơn điệu.
Về phía học sinh:
 + Mấy năm gần đây, do nhận thức không đầy đủ, lệch lạc, thực dụng của một số không nhỏ học sinh và phụ huynh học sinh đối với vị trí, tầm quan trọng của môn văn đối với mỗi con người nên tâm lí lười học, học qua loa, đối phó.
 + Do sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng việc lựa chọn nghề nghiệp sau này nên học sinh không chú trọng, không quan tâm đến các môn học xã hội, đặc biệt là môn Ngữ văn. Học sinh thường có tâm lí ngại học giờ Tập làm văn, vừa khô khan vừa phải viết bài.
 + Do năng lực tư duy, trình độ ngôn ngữ còn hạn chế. Thiếu kiến thức thực tế, lười đọc nên câu cú diễn đạt còn ngô nghê, vụng về, thiếu cảm xúc, không biết lấy dẫn chứng từ đâu.
 + Do điều kiện khác nhau, nên việc trò chuyện, tiếp xúc với bố mẹ, những người thân trong gia đình và cộng đồng rất hạn chế nên vốn liếng về cuộc sống, về văn học còn chưa phong phú.
+ Những bài làm chưa đạt yêu cầu, các em thường mắc những lỗi cơ bản sau:
 - Bài văn chưa sát với đề bài, lập luận chưa chặt chẽ, giải thích vấn đề còn sơ sài.
 - Bài làm lan man, chưa đủ ý.
 - Hành văn còn lủng củng, chưa có sức thuyết phục.
 - Sau giải thích, học sinh chưa biết liên hệ, đánh giá.
 Từ thực tế giảng dạy và học tập như trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số phương pháp cụ thể để rèn kỹ năng làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
 1. Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm chung của văn nghị luận.
 Trước hết, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm sau của văn nghị luận:
 Nghị luận là loại văn bản viết ra nhằm phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức, đánh giá thái độ đối với cuộc sống bằng những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Nếu tác phẩm văn học nghệ thuật phát biểu ý kiến, bày tỏ thái độ đối với cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm thì văn nghị luận diễn đạt bằng những mệnh đề, phán đoán, những khái niệm có lôgic thuyết phục.
 Ví dụ 1: Khi hướng dẫn học sinh giải thích bài ca dao sau:
"Công cha như núi thái sơn
 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con" 
 Bài ca dao trên đưa ra những hình ảnh: Núi Thái Sơn, nước trong nguồn chảy ra để nói về công ơn to lớn của cha mẹ, nhưng không hề nêu luận điểm nào. Ý kiến, tư tưởng trong bài ca tiềm ẩn trong tác phẩm. Nếu phải viết một bài nghị luận về công ơn của cha mẹ và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, thì phải có luận điểm. Vậy, tôi hướng dẫn học sinh lập luận theo hệ thống luận điểm:
 Bài ca dao có ý nghĩa sâu sắc. Bằng cách so sánh công cha với dãy núi Thái Sơn đồ sộ và nghĩa mẹ với nước nguồn vô tận. Vì vậy, bài ca dao khẳng định công lao của cha mẹ đối với con cái là vô cùng to lớn và bất tận. Tiếp đó, bài ca dao khẳng định đạo làm con là phải Một lòng thờ mẹ kính chađạo con. Đạo là hướng phải theo cho phù hợp với luân lí xã hội. Hiếu là lòng kính yêu của con cái đối với cha mẹ. Thờ, kính là sự yêu mến, coi trọng, là sự chăm lo một cách tôn kính. Toàn bài ca dao phản ánh một vấn đề đạo đức đó là: Làm con phải có hiếu với cha mẹ, là hành vi đạo đức được người đời ca ngợi.
 Từ bài ca dao và đoạn văn nghị luận nói trên, ta thấy muốn phát biểu ý kiến nghị luận về vấn đề gì để người đọc, người nghe hiểu, tin, tán đồng với ý kiến của mình thì ta phải giải thích. Vậy, hướng dẫn cho học sinh hiểu thế nào là nghị luận giải thích, biết tạo lập một văn bản nghị luận giải thích, đó là việc làm thiết thực của giáo viên mà ngay từ khi các em học lớp 7 cần được hiểu.
Trước hết, người dạy phải cho học sinh nắm được yêu cầu của kiểu bài này.
2. Rèn cho học sinh nắm vững yêu cầu, bố cục của bài văn nghị luận giải thích.
 Yêu cầu này áp dụng cho cả người dạy và người học vì những mục đích nhất định : Hiểu đúng kiểu bài nghị luận và viết đúng nghị luận giải thích. Lập luận giải thích cần hiểu ở các khía cạnh : Giải thích là giảng giải cho cặn kẽ, chú thích thêm sáng tỏ. Kiểu bài nghị luận giải thích là kiểu bài trình bày các lí lẽ để giảng giải có kèm theo dẫn chứng cần thiết cho lí lẽ thêm vững chắc, giúp người đọc hiểu rõ thêm vấn đề đã nêu ra
 Nhưng trong chương trình, tiết học 104 tuy có lí thuyết chung cho nghị luận giải thích nhưng còn rất đơn giản, chung chung. Ngoài những điều sách giáo khoa trình bày về nghị luận giải thích như : Nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh, đối chiếu với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi hại của vấn đềlàm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng đạo lí, phẩm chất, quan hệ giáo viên cần giới thiệu thêm một số điều cần lưu ý khi làm văn nghị luận giải thích( nên dạy ở những buổi học ôn) để các em nắm rõ hơn vấn đề, trước khi thực hiện tạo lập văn bản.
 Vậy, yêu cầu trước khi làm bài văn nghị luận giải thích là gì? Học sinh cần nắm được:
 Trước hết, phải xác định đúng vấn đề cần giải thích, tránh tình trạng nói chờn vờn quanh đề bài. Muốn vậy, cần phải học nhiều, đọc nhiều, vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích cho phù hợp.
 Phải phát hiện vấn đề của đầu bài có những khía cạch nào cần giải thích (hoặc có những từ, khái niệm nào cần giảng giải) mối quan hệ giữa các khía cạnh đó
 Có một hệ thống lí lẽ kèm theo dẫn chứng cần thiết để giảng giải cho cặn kẽ vấn đề cần giải thích. Bài văn giải thích phải mạch lạc, lớp lang, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Không nên dùng những điều không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu. 
 Trong phép lập luận giải thích, đối với người đọc, dẫn chứng khác với lập luận chứng minh ở chỗ :
 Về mục đích và mức độ, dẫn chứng chỉ đóng vai trò phụ trợ, bổ sung, làm nổi bật một số lí lẽ
 Về số lượng, nó ít hơn hẳn và không cần liên tục, thường xuyên, liền mạch.
Trong giải thích thường có chứng minh và ngược lại, trong chứng minh, cũng cần phải giải thích.
 Người dạy cần tìm hiểu kĩ vấn đề giải thích cho kĩ hơn, phải đi từ cái sâu xa đến cái cụ thể, rõ ràng. Những tri thức này có lẽ chưa thể có được ở học sinh.
 Chúng ta sẽ dùng hai ví dụ sau đây để làm rõ mục đích, yêu cầu của văn giải thích.
 Ví dụ 2 : Giải thích thế nào là Liêm (Trong Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công, Vô tư) : Liêm là trong sạch, không tham lam.
Nhưng giáo viên phải giảng giải cặn kẽ hơn ở các khía cạnh sau : Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét của nhân dân gọi là liêm (Nghĩa hẹp). Còn ngày nay, chữ liêm rộng nghĩa hơn nhiều, có nghĩa là mọi người cần phải hiểu, chữ liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới liêm được vì sự xa xỉ sẽ nảy sinh tham lam. Tham tiền của, địa vị, danh tiếng có nghĩa là bất liêm.
 Ví dụ 3: Cho đoạn văn: “Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều rất khó nói. Chúng ta không thể nói tiếng ta đẹp như thế nào cũng như ta không thể nào phân tích cái đẹp của ánh sáng, của thiên nhiênCó lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước đến nay là cao quí, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp” (Phạm Văn Đồng).
 Đây là một đoạn văn giải thích rất hay, đặc sắc. Vấn đề cần giải thích là vẻ đẹp của tiếng Việt. Là vấn đề trừu tượng, rất khó làm rõ. Bởi vậy, tác giả chọn cách giải thích gián tiếp từ nguồn gốc, từ những nguyên nhân tạo ra vẻ đẹp đó. Đó là cách giải thích rất thông minh, sáng tạo. Phạm Văn Đồng đúng là bậc thầy trong việc giải thích.
 Như vậy, chúng ta có thể đưa ra kết luận về yêu cầu của giải thích: Người ta có thể giải thích bằng nhiều cách, có thể giải thích bằng trực tiếp, có thể bằng gián tiếp. Có những vấn đề có thể dùng tư liệu có sẵn để giải thích, nhưng cũng có những vấn đề trừu tượng(như đoạn văn của Phạm Văn Đồng) thì cần sự thông minh, đưa ra lí lẽ phù hợp để giải thích vấn đề. Và đặc biệt cần lưu ý: Trong văn lập luận giải thích cần có dẫn chứng nhưng ít hơn, không liên tục như trong lập luận chứng minh.
3. Định hướng cho học sinh các phương pháp, kĩ năng làm bài văn giải thích.
 Muốn tạo lập được một văn bản nghị luận giải thích, cần đảm bảo được:
3.1. Xây dựng hệ thống câu hỏi trong bài văn nghị luận giải thích:
 Hệ thống câu hỏi trong văn lập luận giải thích cần được hiểu:
Đối với người cần được giải thích thì câu hỏi sẽ là: Nghĩa là gì? bao gồm những gì? như thế nào? tại sao? Và chỉ khi giải đáp được những câu hỏi đó thì mới có thể tìm hiểu được đối tượng. Người hiểu biết cần giải đáp cho người khác hiểu những câu hỏi dạng đó.
 Với một bài tập làm văn, người làm văn cần thực hiện cả hai nhiệm vụ của người hỏi và người trả lời. Ở cương vị người cần tìm hiểu, phải biết đặt lấy những câu hỏi để tìm hiểu cho phù hợp, đầy đủ. Còn ở cương vị người giải thích, cần phải tìm hiểu mọi lí lẽ để giảng giải, trả lời đầy đủ, rõ ràng những câu hỏi ấy.
 Câu hỏi t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_day_kieu_bai_lam_van_nghi_luan_giai.doc