SKKN Một số giải pháp tiếp cận bài học môn Toán trong chương trình lớp 11 nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả tiết học cho học sinh lớp 11C4 Trường THPT Triệu Sơn 3

SKKN Một số giải pháp tiếp cận bài học môn Toán trong chương trình lớp 11 nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả tiết học cho học sinh lớp 11C4 Trường THPT Triệu Sơn 3

 Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.

 Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và đào tạo” đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực ”. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi giáo viên phải luôn tích cực nghiên cứu và vận dụng có hiệu quả các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; chú trọng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh; phát huy tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó, mong muốn phát triển thế hệ mới năng động, sáng tạo nhằm tạo ra nguồn lực nội sinh cho mỗi con người đồng thời tạo nên động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

 Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm”; nhằm mục đích phát triển năng lực cho học sinh, là giáo viên dạy môn Toán tôi luôn xác định rằng: cần phải năng động, sáng tạo và linh hoạt trong sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học, phải khơi dậy được ở người học niềm đam mê hứng thú với tiết học, môn học như Bác Hồ đã từng dạy: “Siêng học tập thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”; “các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực” và trong thư gửi Hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc Bác cũng yêu cầu “Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”[8] mới tạo được hứng thú học tập, phát triển được năng lực người học và đạt được mục tiêu giáo dục như mong muốn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp tiếp cận bài học môn Toán trong chương trình lớp 11 nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả tiết học cho học sinh lớp 11C4 Trường THPT Triệu Sơn 3” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2016-2017. Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề trên, nên đề tài tôi nghiên cứu trên là thực sự thiết thực và cần thiết góp phần tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời tăng cường được hiệu quả làm bài trắc nghiệm môn Toán cho học sinh.

 

doc 18 trang thuychi01 11202
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp tiếp cận bài học môn Toán trong chương trình lớp 11 nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả tiết học cho học sinh lớp 11C4 Trường THPT Triệu Sơn 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lý do chọn đề tài
	Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
	Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và đào tạo” đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi giáo viên phải luôn tích cực nghiên cứu và vận dụng có hiệu quả các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; chú trọng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh; phát huy tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó, mong muốn phát triển thế hệ mới năng động, sáng tạo nhằm tạo ra nguồn lực nội sinh cho mỗi con người đồng thời tạo nên động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
	Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm”; nhằm mục đích phát triển năng lực cho học sinh, là giáo viên dạy môn Toán tôi luôn xác định rằng: cần phải năng động, sáng tạo và linh hoạt trong sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học, phải khơi dậy được ở người học niềm đam mê hứng thú với tiết học, môn học như Bác Hồ đã từng dạy: “Siêng học tập thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”; “các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực” và trong thư gửi Hội nghị cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc Bác cũng yêu cầu “Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”[8] mới tạo được hứng thú học tập, phát triển được năng lực người học và đạt được mục tiêu giáo dục như mong muốn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp tiếp cận bài học môn Toán trong chương trình lớp 11 nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả tiết học cho học sinh lớp 11C4 Trường THPT Triệu Sơn 3” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2016-2017. Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề trên, nên đề tài tôi nghiên cứu trên là thực sự thiết thực và cần thiết góp phần tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời tăng cường được hiệu quả làm bài trắc nghiệm môn Toán cho học sinh.
	1.2. Mục đích nghiên cứu:
	Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Tạo hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, từ đó:
	- Hình thành và phát triển cho học sinh những kỹ năng, năng lực nhận thức sau:
	+ Năng lực tư duy, kỹ năng tính toán.
	+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ Toán học, biết quy lạ về quen
	+ Năng lực sử dụng công cụ tính toán : MTCT
	- Nâng cao được kết quả học tập; phát triển được tối đa năng lực của học sinh trong quá trình làm bài thi trắc nghiệm.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Nghiên cứu các giải pháp tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú học tập, tăng cường hiệu quả làm bài trắc nghiệm cho học sinh lớp 11C4 trường THPT Triệu Sơn 3 khi dạy học môn Toán.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp nghiên cứu lí luận
 - Phương pháp quan sát.
 - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
 - Phương pháp thực nghiệm
	- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
	2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong nghị quyết TW 4 khóa VII (1/ 1993), nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/ 1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục (12/ 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4/ 1999) [4]
	Dạy học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong nhà trường THPT là mục tiêu đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Luật giáo dục điều 28 đã ghi rõ: “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [4].
	Muốn tạo ra được sự thống nhất giữa nhận thức và hành động theo nguyên lý “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”[4], trong giảng dạy môn Toán ngoài việc người thầy phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản gắn liền với những kỹ năng giải quyết nhanh bài toán, tránh những sai lầm thường gặp thì người thầy cần phải khơi dậy được sự hứng thú học tập cho học sinh; bởi lẽ khi học sinh hứng thú với bài học thì không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, học sinh say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, chủ động và sáng tạo.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	2.2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội và giáo dục địa phương:
	Trường THPT Triệu Sơn 3 ở phía tây Huyện Triệu Sơn, địa bàn tuyển sinh của Trường là 9 xã thuần nông (4 xã miền núi và vùng đặc biệt khó khăn V134, V135). Kinh tế chung của địa phương khó khăn, phần lớn bố mẹ của học sinh đều làm nông, số học sinh là con em các dân tộc ít người chiếm gần 15%. Chất lượng tuyển sinh đầu vào cũng khá thấp, với điểm chuẩn đầu vào trung bình khoảng từ 3,5 đến 4,0 điểm/môn. 
	2.2.2.Thực trạng học môn Toán của học sinh lớp 11C4:
	- Chất lượng đại trà của học sinh lớp 11C4 còn yếu (điểm chuẩn đầu vào môn Toán trung bình 4,25 điểm). Số học sinh tự mình tiếp thu và giải được các bài toán không nhiều, hầu hết học sinh còn yếu các kĩ năng kiến tạo kiến thức (yếu về định hướng giải toán, yếu về kĩ năng chuyển đổi bài toán, kĩ năng chuyển đổi ngôn ngữ, kĩ năng phát hiện vấn đề để giải quyết vấn đề,...). Ví dụ như em: Mai Xuân Đại, Hà Đình Chiến, Nguyễn Tài Trí, Lê Thanh Tùng. 
	- Nhiều học sinh cho rằng Toán học là môn học trừu tượng, khó hiểu, phải học là do bắt buộc nên không hứng thú học tập (ví dụ như em: Nguyễn Tuấn Trọng, Lê Nam Anh, Lê Thành Đạt, Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Trọng Đông, Hoàng Văn Vũ, Lại Trung Tiến,.).Các em cảm thấy lo lắng mỗi khi đến tiết học môn Toán.
	- Đa số học sinh chưa biết phương pháp học, chưa nhận thức được tầm quan trọng của bài học, chưa tích cực và ít hứng thú khi tham gia các hoạt động học tập; tiết học trở nên đơn điệu, chưa cuốn hút được các em nên hiệu quả học tập trong nhà trường là chưa cao. 
	- Kỹ năng ghi chép và nhớ còn “ngự trị” và “lấn át” những kỹ năng khác như: tự đọc, tự suy nghĩ, tìm tòi, tự tóm lược,  . Học sinh còn lười suy nghĩ, chưa tích cực tư duy hoạt động trí não tìm tòi phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, tiếp thu kiến thức một cách thụ động nên dễ quên, không vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào giải toán. Các em chưa có thói quen tư duy tìm tòi, sáng tạo, khai thác các vấn đề mới từ những cái đã biết, đã học (Ví dụ như các em Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Phan Văn Nam, Chẩu Xuân Anh, Lê Trọng Lê, Hà Xuân Cường, Lê Văn Sơn chăm chỉ rèn kỹ năng theo một “lối mòn”, chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào giải toán, chưa hình thành được thói quen tư duy tìm tòi, sáng tạo, khai thác các vấn đề mới từ những cái đã biết, đã học. Còn các em như Lê Huy Linh, Lê Huy Thành, Hà Thọ Nguyên Việt, Trần Thị Lệ,.. là học sinh có khả năng tiếp thu bài nhưng do chưa hứng thú học, lười suy nghĩ, chưa tích cực trong học tập nên “học trước quên sau”. 
	Điều này thể hiện rõ ở kết quả học tập của các em:
Điểm tổng kết môn Toán năm học lớp 10
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
40
1
2,5%
10
25%
22
55%
7
17,5%
0
0%
Điểm khảo sát môn Toán đầu năm học lớp 11
Sĩ số
Điểm 9-10
Điểm 7 đến dưới 9
Điểm 5 đến dưới 7
Điểm 3 đến dưới 5
Dưới 3
40
0
0%
10
25%
14
35%
15
37,5%
1
2,5%
	Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nói trên. Nhưng theo tôi nguyên nhân chủ yếu nhất là giáo viên chưa khơi dậy cho học sinh được niềm vui sự hứng thú với bài học, tiết học không có gì mới mẻ, đơn điệu, khô khan buồn tẻdo đó không đủ sức gây được sự chú ý, hấp dẫn từ phía người học, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong giờ học của môn học. Vậy làm thế nào để có thể tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút đối với học sinh trong các tiết học, trong từng nội dung của bài học một cách có hệ thống, bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan, nhàm chán. 
	Với tâm nguyện “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn” (Uyliam Batơ Dit), bản thân tôi luôn tích cực bồi dưỡng thường xuyên, nỗ lực tự học để chọn lọc đơn vị kiến thức, phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện phù hợp với đặc trưng từng kiểu bài lên lớp, từng đối tượng học sinh, đặc biệt phải chú ý đến nhu cầu tư duy, tâm lý muốn khám phá cái mới, cái độc đáo ở học sinh THPT.
	2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
	2.3.1. Kích thích trí tò mò, sự hứng thú muốn khám phá bài học của học sinh bằng cách đặt vấn đề giới thiệu bài mới.
	Ví dụ 1: Khi dạy bài “Cấp số cộng”, để kích kích trí tò mò, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, tôi đã lấy ví dụ sau: 
	Khi ký hợp đồng dài hạn với các kỹ sư được tuyển dụng, công ty liên doanh A đề xuất 2 phương án trả lương để người lao động tự lựa chọn, cụ thể:
	- Phương án 1: Người lao động sẽ nhận được 60 triệu đồng cho năm làm việc đầu tiên, và kể từ năm làm việc thứ hai , mức lương sẽ được tăng thêm 6 triệu đồng mỗi năm.
	- Phương án 2: Người lao động sẽ được nhận 12 triệu đồng cho quý làm việc đầu tiên, và kể từ quý làm việc thứ hai, mức lương sẽ được tăng thêm 1 triệu đồng mỗi quý.
	Nếu em là người ký hợp đồng lao động với công ty liên doanh A thì em sẽ chọn phương án nào?[1].
	Qua ví dụ này, đa số các em học sinh cảm thấy băn khoăn trong việc lựa chọn phương án, và có em còn hỏi cô giáo “nên chọn phương án nào cô?”. Từ cái băn khoăn đó tôi đã dẫn các em vào nội dung bài học mới “Cấp số cộng”.
	Ví dụ 2: Khi dạy bài “Cấp số nhân”, để kích kích trí tò mò, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, tôi đã lấy một ví dụ dưới dạng mẫu chuyện sau: 
“ Tương truyền vào một ngày nọ, có một nhà toán học đến gặp một nhà tỷ phú và đề nghị được “bán” tiền cho ông ta theo thể thức sau: Liên tục trong 30 ngày, mỗi ngày nhà toán học “bán” cho nhà tỷ phú 10 triệu đồng với giá một đồng ở ngày đầu tiên và kể từ ngày thứ hai, mỗi ngày nhà tỷ phú phải “mua” với giá gấp đôi giá của ngày hôm trước. Không một chút đắn đo, nhà tỷ phú đồng ý ngay tức thì, lòng thầm cảm ơn nhà toán học nọ đã mang lại cho ông ta một cơ hội hốt tiền “nằm mơ cũng không thấy”. Hỏi nhà tỷ phú đã lãi được bao nhiêu trong cuộc mua – bán kì lạ này? [1].
	Qua ví dụ này, nhiều học sinh cho rằng nhà tỷ phú lãi lớn trong cuộc mua – bán này, còn một số học sinh thì còn băn khoăn vì người mua – bán với nhà tỷ phú là nhà toán học nên khó có thể tính toán thua lỗ được. Từ đó tôi giới thiệu bài mới: Để chúng ta biết rõ được ai là người có lãi trong cuộc mua – bán này và lời lãi bao nhiêu thì cô trò ta cùng nhau nghiên cứu bài học mới “Cấp số nhân”
	Ví dụ 3: Khi dạy bài “ Hai quy tắc đếm cơ bản”. Để kích kích trí tò mò, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh cho bài học mới tôi đã đưa ra 2 bài toán sau:
Nhà Bình
Nhà An
Nhà Cường
Bài toán 1: An muốn qua nhà Bình để cùng Bình đến chơi nhà Cường. Từ nhà An đến nhà Bình có 3 con đường đi, từ nhà Bình đến nhà Cường có 2 con đường đi. Hỏi An có bao nhiêu cách chọn đường đi đến nhà Cường? [1]
Bài toán 2: Nhãn mỗi chiếc ghế trong một hội trường gồm 2 phần: phần đầu là 1 chữ cái ( trong bảng 24 chữ cái tiếng Việt), phần thứ hai là một số nguyên dương nhỏ hơn 25. Hỏi có nhiều nhất bao nhiêu chiếc ghế được ghi nhãn khác nhau? [1].
	Ở bài toán 1 khi chưa học quy tắc nhân thì học sinh vẫn có thể đưa ra đáp án đúng trong vòng thời gian ngắn bằng cách liệt kê các phương án. Nhưng sang bài toán 2 thì học sinh không thể liệt kê nhanh các phương án xảy ra, do vậy các em thường đưa ra một kết quả mò có thể đúng nhưng các em chưa rõ bản chất. Từ đó, tôi dẫn vào bài mới: Bài toán đếm số phần tử của một tập hợp xuất hiện khá phổ biến trong khoa học cũng như trong cuộc sống. Nếu số phần tử của một tập hợp không nhiều thì ta có thể đếm trực tiếp được số phần tử của nó bằng cách liệt kê. Tuy nhiên, nếu số phần tử của một tập hợp rất lớn thì cách đếm trực tiếp là không khả thi. Ở bài học này sẽ giúp chúng ta có thể tính chính xác số phần tử của một tập hợp mà không cần đếm trực tiếp. 
	Ví dụ 4: Khi dạy bài “Biến cố và xác suất của biến cố” để kích thích sự chú ý, hứng thú học tập của học sinh, tôi đã đưa ra bài toán thực tế sau:
	Lô đề là một trò chơi cờ bạc khá nổi tiếng. Người chơi đăng ký một số bất kỳ từ 00 đến 99. Người chơi thắng khi con số họ chọn trùng với hai chữ số cuối cùng của giải đặc biệt của xổ số kiến thiết hằng ngày. Nếu thắng thì người chơi được số tiền gấp 70 lần số tiền bỏ ra. Luật chơi như thế liệu nhà cái có lỗ không?
	Từ đây, tôi nêu vấn đề đặt ra: Muốn biết trong trò chơi này ai thiệt ai lợi thì hãy xem xác suất người chơi thắng trong trò chơi này là như thế nào? Thế cách tính xác suất như thế nào? Để trả lời được các câu hỏi đó thì cô trò ta cùng nhau nghiên cứu bài “Biến cố và xác suất của biến cố”
	Với cách giới thiệu bài mới trên đã gây được sự chú ý và hứng thú học tập cho học sinh. Các em thực sự đã bị cuốn hút vào bài học và rất hào hứng chờ đợi những bài học mới. Đồng thời đã huy động được tính tích cực của hầu hết học sinh trong cả lớp, em nào cũng phải suy nghĩ, động não và hoạt động kể cả những học sinh có học lực trung bình, yếu; phát triển được năng lực tư duy logic, năng lực hợp tác làm việc nhóm qua việc các em trao đổi nội dung kiến thức với nhau, từ đó phát huy được những năng lực cơ bản của con người mới trong thời kỳ hội nhập và phát triển. 
	2.3.2. Tạo hứng thú, tự tin sẵn sàng trong học tập cho học sinh bằng cách tổ chức các hình thức trò chơi kết hợp với các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực:
	Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí, vừa là một phương pháp giáo dục. Sử dụng hình thức trò chơi kết hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khác trong dạy học môn Toán có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay,...Sử dụng hình thức trò chơi trong tiết dạy sẽ “xóa tan” đi áp lực học tập căng thẳng, tạo ra một môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái và đầy thú vị, cuốn hút được mọi đối tượng học sinh tham gia; các em sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong quá trình chuẩn bị bài và mạnh dạn hơn trong các hoạt động học tập, Có thể nói, hứng thú và chủ động trong học tập chính là một sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển nhân cách và hình thành các năng lực cần thiết ở học sinh. Việc lồng ghép các đơn vị kiến thức vào những trò chơi trong giờ học không chỉ giúp cho giờ học ấy trở nên thú vị mà còn giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức bằng con đường ngắn nhất và tự nhiên nhất; 
	Để phát huy tính được tính chủ động, sáng tạo và tạo được hứng thú học tập cho học sinh một cách tối ưu nhất, trong quá trình dạy ở các tiết luyện tập và ôn tập chương, tôi tổ chức trò chơi “giúp bạn vượt chướng ngại vật”.
	Với trò chơi “Giúp bạn vượt chướng ngại vật” sẽ giáo dục rất cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, đặc biệt là tinh thần giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém nắm được kiến thức một cách khá thuận lợi, giúp học sinh củng cố và khắc sâu các kiến thức, các dạng bài tập từ cấp độ dễ đến cấp độ khó. Rèn luyện kỹ năng tính toán, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ Toán học, biết quy lạ về quen cho học sinh. Thu hút số đông học sinh tích cực, nhiệt tình học tập.
Thực chất trò chơi này là phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực – dạy học theo nhóm
	Ví dụ 1: Ở tiết luyện tập bài “Hai quy tắc đếm”, tôi tổ chức trò chơi “giúp bạn vượt chướng ngại vật” 
	Chuẩn bị của GV: Chuẩn bị 5 câu hỏi, bài tập và sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó.
	Trong trò chơi này tôi chia lớp thành 6 nhóm (chia theo khu vực địa lý để đảm bảo nhóm nào cũng có học sinh khá hoặc học sinh giỏi ).
	GV chiếu nội dung câu hỏi, bài tập; các nhóm nhận nhiệm vụ, thảo luận trong vòng 10 phút. Trong thời gian thảo luận, các em học sinh có lực học còn yếu học hỏi các bạn có lực học tốt hơn, học sinh có học khá giỏi giúp các bạn có học lực yếu vượt qua những khó khăn, vướng mắc. Sau 10’, GV gọi học sinh lên bảng trình bày bài, (thường ưu tiên học sinh có lực học còn yếu lên bảng trình bày bài tập ở mức độ nhận biết hoặc thông hiểu). Các học sinh còn lại theo dõi kết quả của bạn để nhận xét đánh giá.
Giáo viên kiểm tra, sửa sai và tùy theo mức độ mà cho điểm những em học sinh này một cách hợp lí. 
	Câu hỏi, bài tập luyện tập (phụ lục1) [2].
	Ví dụ 2: Ở tiết ôn tập chương I: “Hàm số lượng giác và phương trình lượng giác”, tôi chia lớp thành 6 nhóm học tập (chia theo khu vực địa lý để đảm bảo nhóm nào cũng có học sinh khá, giỏi ).
	GV chuẩn bị 5 gói câu hỏi để củng cố, ôn tập kiến thức của chương.
Gói 1: Gồm 5 câu hỏi về tập xác định của hàm số lượng giác.
Gói 2: Gồm 5 câu hỏi về tính chẵn – lẻ, chu kỳ của hàm số lượng giác.
Gói 3: Gồm 5 câu hỏi về tập giá trị của hàm số lượng giác.
Gói 4: Gồm 5 câu hỏi về phương trình lượng giác cơ bản.
Gói 5: Gồm 5 câu hỏi về phương trình lượng giác thường gặp. [1]
	Cho học sinh chọn gói câu hỏi; các nhóm cùng làm, học sinh trong nhóm thảo luận với nhau, thời gian thảo luận mỗi gói câu hỏi là 5 phút. Những em học sinh khá giỏi trong nhóm có trách nhiệm giúp các bạn có lực học yếu hơn nhớ lại những kiến thức đã học, từ đó củng cố và khắc sâu kiến thức, biết vận dụng kiến thức để làm các bài tập.
	Giáo viên gọi một học sinh của một nhóm trả lời câu hỏi của gói 1, học sinh các nhóm còn lại lắng nghe và nhận xét ( ưu tiên cho học sinh có lực học TB, yếu; những học sinh ở nhóm khác nhận xét đúng vẫn cho điểm). Tùy vào mức độ mà giáo viên cho điểm học sinh một cách hợp lý.
	Câu hỏi của từng gói (phụ lục 2)
	Ở các tiết dạy học lý thuyết tôi tổ chức trò chơi “Đoán nhanh ô chữ” ở phần củng cố bài học. Với trò chơi này học sinh rất hứng thú và tích cực tham gia, không khí học tập sôi nổi hơn hẳn, từ đó giúp các em khắc sâu nội dung kiến thức vừa học một cách nhẹ nhàng, không “áp lực”, đồng thời rèn luyện tính nhanh nhẹn, kỹ năng tính toán nhanh, chính xác, khéo léo cho học sinh. Thực chất trò chơi này là cho học sinh trả lời các câu hỏi dạng điền khuyết. 
Ví dụ 3: Sau khi dạy xong tiết 39 bài “Dãy số”- ĐS & GT 11NC, tôi tổ chức trò chơi “Đoán nhanh ô chữ” với nội dung 5 câu hỏi (Phụ lục 3)
	Ví dụ 4: Sau khi dạy xong bài “Đạo hàm của các hàm số lượng giác”- ĐS & GT 11NC, tôi tổ chức trò chơi “Đoán nhanh ô chữ” với nội dung 7 câu hỏi (Phụ lục 4)
	 Hình ảnh trò chơi “Đoán nhanh ô chữ”
	2.3.3. Tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Toán bằng những liên hệ thực tế 
	Toán học có rất nhiều ứng dụng vào thực tế và nó thể hiện rất rõ trong cuộc sống hằng ngày của con người. Với mục đích giúp cho học sinh thấy rằng toán học là rất gần gũi với cuộc sống xung quanh, hoàn toàn rất thực tế và việc tiếp thu các kiến thức toán ở nhà trường không chỉ để thi cử mà nó còn là những công cụ đắc lực để giúp các em giải quyết các vấn đề, tình huống đơn giản trong thực tế.
	Do vậy việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây hứng thú học tập môn Toán. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Toán học là môn học đặc thù, là môn học rèn luyện cho học sinh đức tính, phẩm chất của người lao động mới: cẩn thận, chính xác, có tính kỉ luật, tính phê phán, tính sáng tạo, bồi dưỡng óc thẩm mĩ. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em họ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_tiep_can_bai_hoc_mon_toan_trong_chuong.doc
  • docBia.doc
  • docBiaphuluc.doc
  • docDanh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc
  • docMucluc.doc
  • docPhuluc.doc
  • docTailieuthamkhao.doc