SKKN Một số giải pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả dạy học Sinh học 6 ở trường THCS &THPT Như Thanh
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế - xã hội đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển đó đặt ra nhu cầu về nguồn nhân lực phải có đủ năng lực, năng động, sáng tạo để hoà nhập với sự phát triển. Thực tế đó đặt ra yêu cầu đối với ngành giáo dục và đào tạo là: cần phải đổi mới giáo dục nhằm tạo ra những thế hệ học sinh có những tố chất đáp ứng được “đơn đặt hàng ” của xã hội đang ngày càng “khắt khe” hơn. Quá trình đổi mới cần thực hiện đối với tất cả các cấp học, các môn học và tác động vào tất cả các thành tố của quá trình dạy học.
Ở nước ta hiện nay, việc đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục đang là vấn đề được quan tâm của Đảng và Nhà nước. Điều đó được thể hiện trong các chủ trương, chính sách cụ thể đã được ban hành. Một trong những việc thiết thực nhất cần làm là đổi mới về phương pháp dạy học trong nhà trường. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của người học với vai trò dẫn dắt khéo léo không thể thiếu được của người giáo viên. Học sinh hình thành được kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách chủ động, tích cực. Qua đó, học sinh trang bị được cho mình những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất để ứng dụng vào cuộc sống sau này.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Hầu hết các hiện tượng, khái niệm,
quy luật, quá trình trong Sinh học đều bắt nguồn từ thực tiễn. Biểu diễn bằng thí nghiệm hay mẫu vật trực quan là một trong những phương pháp quan trọng để tổ chức học sinh nghiên cứu các hiện tượng Sinh học. Nhất là học sinh lớp 6 muốn hình thành kiến thức Sinh học thì việc quan sát mẫu vật là rất quan trọng và hữu ích. Từ quan sát mẫu vật học sinh sẽ phát hiện kiến thức nhanh, nhớ lâu vận dụng vào thực tiễn tốt.
Qua nhiều năm giảng dạy ở trường THCS Phượng Nghi nay là trường THCS&THPT Như Thanh là một trường thuộc vùng có điều kiện kinh tế khó khăn của huyện miền núi Như Thanh, tôi thấy rằng việc sử dụng mẫu vật của học sinh lớp 6 còn chưa được thành thục. Do đó việc rèn luyện kỹ năng sử dụng mẫu vật cho các em là một việc làm hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng học tập. Nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng vật mẫu như thế nào để giảng dạy có hiệu quả cao? Hiện nay qua nghiên cứu tôi nhận thấy chưa có tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này. Chính vì vậy trên cơ sở kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp với việc trao đổi cùng đồng nghiệp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả dạy học Sinh học 6 ở trường THCS &THPT Như Thanh”.
1. MỞ ĐẦU. 1.1. Lý do chọn đề tài: Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế - xã hội đang phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển đó đặt ra nhu cầu về nguồn nhân lực phải có đủ năng lực, năng động, sáng tạo để hoà nhập với sự phát triển. Thực tế đó đặt ra yêu cầu đối với ngành giáo dục và đào tạo là: cần phải đổi mới giáo dục nhằm tạo ra những thế hệ học sinh có những tố chất đáp ứng được “đơn đặt hàng ” của xã hội đang ngày càng “khắt khe” hơn. Quá trình đổi mới cần thực hiện đối với tất cả các cấp học, các môn học và tác động vào tất cả các thành tố của quá trình dạy học. Ở nước ta hiện nay, việc đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục đang là vấn đề được quan tâm của Đảng và Nhà nước. Điều đó được thể hiện trong các chủ trương, chính sách cụ thể đã được ban hành. Một trong những việc thiết thực nhất cần làm là đổi mới về phương pháp dạy học trong nhà trường. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tự khám phá và xây dựng kiến thức của người học với vai trò dẫn dắt khéo léo không thể thiếu được của người giáo viên. Học sinh hình thành được kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách chủ động, tích cực. Qua đó, học sinh trang bị được cho mình những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất để ứng dụng vào cuộc sống sau này. Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Hầu hết các hiện tượng, khái niệm, quy luật, quá trình trong Sinh học đều bắt nguồn từ thực tiễn. Biểu diễn bằng thí nghiệm hay mẫu vật trực quan là một trong những phương pháp quan trọng để tổ chức học sinh nghiên cứu các hiện tượng Sinh học. Nhất là học sinh lớp 6 muốn hình thành kiến thức Sinh học thì việc quan sát mẫu vật là rất quan trọng và hữu ích. Từ quan sát mẫu vật học sinh sẽ phát hiện kiến thức nhanh, nhớ lâu vận dụng vào thực tiễn tốt. Qua nhiều năm giảng dạy ở trường THCS Phượng Nghi nay là trường THCS&THPT Như Thanh là một trường thuộc vùng có điều kiện kinh tế khó khăn của huyện miền núi Như Thanh, tôi thấy rằng việc sử dụng mẫu vật của học sinh lớp 6 còn chưa được thành thục. Do đó việc rèn luyện kỹ năng sử dụng mẫu vật cho các em là một việc làm hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng học tập. Nhưng vấn đề đặt ra là sử dụng vật mẫu như thế nào để giảng dạy có hiệu quả cao? Hiện nay qua nghiên cứu tôi nhận thấy chưa có tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này. Chính vì vậy trên cơ sở kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp với việc trao đổi cùng đồng nghiệp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả dạy học Sinh học 6 ở trường THCS &THPT Như Thanh”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp sử dụng mẫu vật để nâng cao hiệu quả dạy học Sinh học 6 ở trường THCS&THPT Như Thanh” nhằm góp phần tích cực hoá hoạt động của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục môn Sinh học nói chung, môn Sinh học lớp 6 nói riêng ở trường THCS&THPT Như Thanh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp sử dụng mẫu vật có hiệu quả trong dạy học Sinh học 6 ở trường THCS&THPT Như Thanh. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Tổng hợp lí luận thông qua tài liệu và thực tiến giảng dạy khối lớp 6 ở trường THCS&THPT Như Thanh. - Phương pháp quan sát và điều tra sư phạm: Dự giờ, trao đổi ý kiến với GV; Xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng của việc sử dụng mẫu vật. - Phương pháp tiến hành khảo sát học sinh, phân tích các số liệu thu được qua khảo sát. - Phương pháp hỏi ý kiến của các giáo viên có kinh nghiệm. - Phương pháp thực hành nghiên cứu, giảng dạy và đúc rút kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lí luận: Với môn sinh học 6, học sinh được tìm hiểu, nghiên cứu về giới Thực Vật. Học sinh bắt đầu được làm quen với môn khoa học nghiên cứu về thế giới Sinh vật. Nếu học sinh học tốt sẽ có được kiến thức, phương pháp và kỹ năng học tập bộ môn. Điều này là rất cần thết để tiếp tục tìm hiểu bộ môn ở các lớp trên (lớp 7,8,9). Để có được những kiến thức cơ bản về thực vật thì thầy và trò phải có những đổi mới trong cách học và cách tổ chức giờ học. Đặc biệt với nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay thì sự đổi mới được thể hiện rõ trong phương pháp dạy học, trong cách soạn bài, tổ chức giờ học, Trong đó việc sử dụng đồ dùng trực quan trong các tiết dạy là một yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu. Nhất là đối với môn sinh học trong đó có môn sinh học lớp 6 nói riêng, chủ yếu lấy việc quan sát mẫu vật, làm các thí nghiệm trực tiếp trên các mẫu vật làm phương pháp nghiên cứu, tạo điều kiện cho học sinh tự tìm tòi, phát hiện ra nội dung kiến thức mới của bài học. Việc sử dụng mẫu vật trong giảng dạy nhằm đáp ứng yêu cầu về mặt nhận thức của học sinh. Ở lứa tuổi học sinh lớp 6, kinh nghiệm sống còn ít, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em bắt đầu tiếp cận môn học, khả năng tư duy trừu tượng còn hạn chế,thì việc sử dụng mẫu vật (trực quan) giúp học sinh hình thành kiến thức nhanh hơn, chính xác hơn, nhớ lâu hơn, khả năng vận dụng thực tiễn tốt hơn. Đồng thời học sinh còn có được các kỹ năng bộ môn, thái độ đối với môn học và ý thức bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường. Việc sử dụng mẫu vật (làm phương tiện trực quan) còn phát huy được ở học sinh tính tự giác, tích cực tự lực, tính chủ động sáng tạo trong việc tự tìm thấy kiến thức dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên. Ngoài ra nó còn gây hứng thú nhận thức cho học sinh, tạo yếu tố tâm lí ban đầu tác dụng tới toàn bộ quá trình nhận thức của các em. Có thể nói, trong môn sinh học 6 sử dụng mẫu vật thật có nhiều ưu điểm so với các phương tiện trực quan khác như tranh ảnh, mô hình Nó cho học sinh biết rõ hình dạng, màu sắc, kích thước thật của đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên cũng tuỳ từng bài, từng nội dung, từng dạng kiến thức cụ thể mà có thể kết họp với các phương tiện trực quan khác một cách hợp lí để tăng hiệu quả dạy học. 2.2. Thực trạng của vấn đề: Qua những năm giảng dạy bộ môn sinh học 6 ở trường THCS Phượng Nghi nay là trường THCS&THPT Như Thanh tôi nhận thấy việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học còn hạn chế do thiết bị, đồ dùng dạy học, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy còn thiếu và chưa đồng bộ... Vì vậy, với môn sinh học 6 - nghiên cứu về giới thực vật thì việc sử dụng mẫu vật sẵn có để quan sát, thí nghiệm tìm ra kiến thức sẽ có nhiều thuận lợi cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học (Nhất là với điều kiện của địa phương Phượng Nghi - Như Thanh, là vùng miền núi, hệ thực vật tương đối đa dạng, gần gũi với học sinh). Mặc dù vậy, bản thân giáo viên chưa thật sự tích cực chủ động nghiên cứu để sử dụng có hiệu quả mẫu vật sẵn có ở địa phương để nâng cao hiệu quả dạy học. Bên cạch đó, với học sinh lớp 6 các em mới bắt đầu làm quen với môn học, làm quen với phương pháp học tập bộ môn nên việc tìm kiếm thu thập mẫu vật của học sinh chưa hiệu quả, các em lấy mẫu còn thiếu, mẫu chưa phù hợp (quá to, quá nhỏ hay không đủ bộ phận cần thiết). Điều này một phần do giáo viên chưa dặn dò cẩn thận, chưa phân công rõ ràng cũng như chưa hướng dẫn học sinh cách thu thập và bảo quản mẫu vật. Dẫn tới khi sử dụng mẫu vật để nghiên cứu thì hiệu quả không cao. Có những bài học, mẫu vật cần phải chuẩn bị trước cả tuần nhưng do giáo viên hướng dẫn chậm nên học sinh chuẩn bị không kịp thời. Đôi khi giáo viên còn quá tin tưởng mà giao cho học sinh tự chuẩn bị mẫu vật mà không chuẩn bị cùng học sinh, vì vậy khi vào giờ học giáo viên không chủ động được trong khâu tổ chức nghiên cứu phát hiện kiến thức. Đôi khi việc quan sát, nghiên cứu mẫu vật hiệu quả chưa cao do tính tích cực của học sinh không cao, thao tác chậm, khả năng phát hiện kiến thức từ mẫu vật chưa nhanh, điều đó làm ảnh hưởng tới phân bố thời gian của bài học. Thực tiễn trên dẫn tới kết quả dạy học chưa cao, việc thực hiện mục tiêu giáo dục chưa triệt để. Học sinh nắm kiến thức không sâu, dễ quên, khả năng vận dụng yếu, năng lực thực tiễn không cao. Đặc biệt việc ứng dụng các kỹ năng bộ môn vào trong thực tiễn hiệu quả không cao chưa đáp ứng được yêu cầu. Khảo sát chất lượng giữa học kỳ II môn sinh học 6 trường THCS&THPT Như Thanh năm học 2015- 2016 với nội dung khảo sát: A. CÂU HỎI. I. PHẦN TRẮC NGHIỆM. (3 điểm) Câu 1: (2 điểm) Hãy khoanh tròn vào chữ cái đầu các câu đúng: 1. Đặc điểm của quả và hạt phát tán nhờ gió là: A. Quả, hạt có cánh được gió chuyển đi xa gốc cây mẹ. B. Quả, hạt có lông được gió đưa đi xa. C. Quả hạt có lông, gai được gió đưa đi xa. D. Cả a và b. 2. Đặc điểm nào sau đây cho thấy dương xỉ khác rêu. A. Sống ở cạn. B. Sinh sản bằng bào tử. C Rễ thật, có mạch dẫn. D. Sinh sản hữu tính 3. Cây thông được xếp vào ngành hạt trần vì: A. Thân gỗ, có mạch dẫn. B. Hạt nằm lộ trên các lá noãn hở. C. Chúng chưa có hoa. D. Có cấu tạo phức tạp. 4. Cây mọc ở nơi nắng gió, khô hạn lá thường có lớp lông hoặc lớp sáp nhằm: A. Để chống nắng. B. Để động vật không ăn được. C. Giảm sự thoát hơi nước. D. Để động vật không ăn được, chống nắng Câu 2: (1đ) Hãy chọn các cụm từ: quang hợp, cân bằng, cản bớt, điều hòa điền vào chỗ trống cho phù hợp để hoàn chỉnh câu sau: Nhờ quá trình(1).thực vật lấy vào khí cacbonic nhả ra khí oxi nên đã góp phần giữ(2).các khí này trong không khí II. PHẦN TỰ LUẬN (7đ) Câu 1: (2.5đ) Cần thiết kế thí nghiệm như thế nào để chứng minh sự nảy mầm của hạt phụ thuộc vào chất lượng hạt giống? Câu 2:(3đ) Kể tên các ngành thực vật đã học( từ thấp đến cao)? Nêu đặc điểm chính của mỗi ngành? Câu 3: (1.5đ) Tại sao người ta nói: “Rừng cây như lá phổi xanh của con người”? B. ĐÁP ÁN VÀ BIỂU CHẤM . I. PHẦN TRẮC NGHIỆM (3đ) Câu 1: Mỗi ý khoanh tròn đúng 0.5đ: 1(A); 2(C); 3(B); 4(C) Câu 2: Mỗi từ điền đúng Được 0.5đ: 1(quang hợp); (cân bằng) II. PHẦN TỰ LUẬN (7đ) Câu Đáp án Điểm 1 + Cốc 1 chọn 10 hạt đỗ có phẩm chất tốt bỏ vào cốc và lót xuống dưới những hạt đỗ một lớp bông ẩm rồi để vào chỗ mát . + Cốc 2 chọn 10 hạt đỗ sứt sẹo, bị sâu mọt bỏ vào cốc và lót xuống dưới những hạt đỗ một lớp bông ẩm rồi để vào chỗ mát. + + Sau 3- 4 ngày đem cả 2 cốc ra quan sát . 1 1 1 - Ngành tảo: Thực vật bậc thấp; chưa có rễ, thân, lá, sống ở nước. - Ngành rêu: Thực vật bậc cao; có thân, lá, rễ giả, chưa có mạch dẫn, sinh sản bằng bào tử. - Ngành dương xỉ: Có rễ thật, có mạch dẫn, sinh sản bằng bào tử. - Ngành hạt trần: Rễ , thân, lá phát triển ; có mạch dẫn; cơ quan sinh sản là nón, sinh sản bằng hạt nằm trên lá noãn hở. - Ngành hạt kín: Rễ, thân, lá phát triển đa dạng; có hoa, quả, hạt; hạt nằm trong quả, nên bảo vệ tốt hơn. 0.5 0.5 0.5 0.5 0.5 3 Cơ bản nêu được các ý: - Ngăn bụi. - Diệt một số vi khuẩn. - Giảm ô nhiễm môi trường. 0.5 0.5 0.5 Kết quả thu được: Số HS Loại giỏi (8-10đ) Loại Khá (6.5- 7.9đ) Loại TB (5- 6.4đ) Loại yếu (3.5-4. đ) Loại kém (Dưới 3.5đ) SL % SL % SL % SL % SL % 61 4 6.6 10 16.4 28 45.9 19 31.1 0 0 2.3. Các giải pháp: 2.3.1. Giải pháp 1: Thường xuyên thu thập và sử dụng mẫu vật trong quá trình dạy học. Trong chương trình Sinh học 6, rất nhiều bài học khi sử dụng mẫu vật làm phương tiện trực quan để quan sát, so sánh, thực hành để tìm ra kiến thức sẽ mang lại hiệu quả cao. Sử dụng mẫu vật giúp học sinh học tập tích cực hơn, chủ động hơn, phát triển được năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng thực tiễn. Đồng thời rèn được kỹ năng bộ môn như quan sát, so sánh, kỹ năng hợp tác Vì vậy, sử dụng mẫu vật là không thể thiếu trong dạy học Sinh học 6. Trong quá trình giảng dạy Sinh học 6 năm học 2016 - 2017 này, tôi đã thường xuyên nghiên cứu thu thập và sử dụng mẫu vật. Có nhiều bài học, nhiều nội dung rất cần sử dụng mẫu vật để học sinh quan sát, phân tích, so sánh rút ra kiến thức. Cho dù nhiều bài, nhiều nội dung nếu không sử dụng mẫu vật mà sử dụng tranh để quan sát thì học sinh vẫn hình thành được kiến thức. Tuy nhiên, nếu sử dụng mẫu vật thì khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh sẽ sâu sắc hơn, nếu không có mẫu vật thì học sinh sẽ hình thành kiến thức một cách mơ hồ, hời hợt, khi ra thực tế học sinh không vận dụng được. Hơn nữa sử dụng mẫu vật giúp rèn luyện được các kỹ năng bộ môn và phù hợp với nhận thức, tư duy của học sinh lớp 6. Theo tôi trong chương trình sinh học 6 có khoảng hơn nửa số bài nên dùng mẫu vật trong quá trình dạy học. Tùy từng bài, từng nội dung cụ thể mà sử dụng một cách hợp lí, mẫu vật có thể sử dụng ngay phần kiểm tra bài cũ, phần tìm hiểu kiến thức mới hay khi củng cố bài. Ví dụ 1: Khi dạy tiết 8 (bài 9 - Sinh học 6): Các loại rễ, các miền của rễ. Ở phần 1: Các loại rễ. Qua phần này, học sinh phải tìm hiểu và nêu được các loại rễ là rễ cọc và rễ chùm, đặc điểm của rễ cọc, rễ chùm và phân biệt chúng. Với nội dung này có thể dùng tranh hình 9.1 sgk về rễ cọc, rễ chùm để học sinh quan sát và rút ra kiến thức. Tuy nhiên, như thế có phần gượng ép, thiếu thực tế và không sinh động. Vì vậy, tôi đã sử dụng mẫu vật trong quá trình giảng dạy để tăng hứng thú học tập, giờ học thêm sôi nổi, học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, tích cực và gắn liền với thực tiễn. Để thực hiện được điều đó tôi đã yêu cầu học sinh chuẩn bị mẫu vật gồm bộ rễ của các loại cây như: nhãn, vải, lúa, hành, ngô, mang đến lớp. Từ các mẫu vật đa dạng, cụ thể và dễ kiếm đó học sinh sẽ quan sát, nhận xét, so sánh để hình thành kiến thức. Tiến trình tổ chức: HĐ Tìm hiểu các loại rễ: - Đầu tiên giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị mẫu vật của học sinh, sau đó chia nhóm và yêu cầu cá nhóm để mẫu vật lên bàn. - Yêu cầu các nhóm thực hiện nhiệm vụ sau: + Phân các loại rễ đã có thành hai nhóm? Viết những đặc điểm dùng để phân loại chúng thành hai nhóm? + Xếp hai nhóm đó thành hai nhóm A và B tương ứng với hình 9.1 sgk. + Lấy một cây ở nhóm A, một cây ở nhóm B. Quan sát, nhận xét, rút ra đặc điểm của từng loại rễ? - Các nhóm học sinh cùng thực hiện nhiệm vụ của nhóm mình bằng cách quan sát mẫu vật hiện có để thực hiện yêu cầu. - Yêu cầu cần đạt là: + Chia được hai nhóm cây: Nhóm 1 gồm nhãn, vải, dừa cạn; nhóm 2 gồm lúa, hành, ngô + Đặt tên nhóm theo hình 9.1 sgk: Nhóm A là nhóm 1; nhóm B là nhóm 2. + Rễ cây ở nhóm A thường có một rễ to đâm sâu và nhiều rễ nhỏ mọc xiên; rễ cây ở nhóm B gồm nhiều rễ kích thước như nhau tạo thành một chùm. - Giáo viên khẳng định kết quả và yêu cầu học sinh sử dụng kết quả đó để làm bài tập điền từ vào chỗ trống sgk - tr 29: (Điền vào chỗ trống) - Học sinh hoạt động độc lập hoàn thành bài tập vào vở bài tập. - Gọi một học sinh đọc đáp án, học sinh khác nhận xét, bổ sung. - Giáo viên nhận xét và hoàn chỉnh kiến thức. + Có hai loại rễ chính: rễ cọc và rễ chùm + Rễ cọc có rễ cái to khỏe, đâm sâu xuống đất và nhiều rễ con mọc xiên. Từ các rễ con lại mọc ra nhiều rễ bé hơn nữa. + Rễ chùm gồm nhiều rễ to, dài gần bằng nhau, thường mọc tỏa ra từ gốc thân thành một chùm. - Yêu cầu học sinh lấy thêm các ví dụ về cây có rễ cọc, rễ chùm ngoài thực tế để củng cố kiến thức. Ví dụ 2: Khi dạy tiết 21 (bài 19 – Sinh học 6) - Đặc điểm bên ngoài của lá . Với bài này, giáo viên có thể vào bài bằng những câu hỏi và hình ảnh như hướng dẫn trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, để gây hứng thú và tạo động lực tìm hiểu kiến thức cho học sinh, tôi đã sử dụng mẫu vật để giới thiệu vào bài. Sau khi giới thiệu chương, tôi đã dùng mẫu vật là một chiếc lá dâu có đủ các bộ phận cho học sinh quan sát. Hướng dẫn để học sinh chú ý vào các bộ phận của lá, các đặc điểm của lá cần tìm hiểu trong bài học bằng cách sử dụng các câu hỏi để vấn đáp trực tiếp học sinh, kết hợp các câu hỏi mở để gây hứng thú và tạo ra nhu cầu tìm hiểu kiến thức của học sinh. Cụ thể như sau: - Lá là một cơ quan sinh dưỡng của cây. Vậy lá có đặc điểm gì? (Câu hỏi này không yêu cầu học sinh trả lời ngay, đó là nhiệm vụ của học sinh phải thực hiện trong cả chương). - Cho học sinh quan sát lá dâu và yêu cầu các em cho biết tên các bộ phận của lá. - Học sinh trả lời được: Cuống lá, phiến lá, gân lá. - Giáo viên chỉ từng bộ phận của lá trên mẫu vật. - Chức năng quan trọng nhất của lá là gì? - Học sinh sử dụng kiến thức đã có ở tiểu học và nêu được: Chức năng quan trọng nhất của lá là quang hợp, chế tạo chất hữu cơ. - GV nêu câu hỏi gợi mở để vào bài: Lá có nhận được ánh sáng mới thực hiện được chức năng này. Vậy những đặc điểm nào giúp lá nhận được nhiều ánh sáng? Sau đó giáo viên bắt đầu tổ chức cho học sinh tìm hiểu các nội dung của bài học. 2.3.2. Giải pháp 2: Kết hợp mẫu vật với các phương tiện trực quan khác để nâng cao hiệu quả Trong quá trình sử dụng mẫu vật, nhiều lúc cần kết hợp với các phương tiện trực quan khác để nâng cao hiệu quả của mẫu vật, đồng thời nâng cao hiệu quả dạy học. Mẫu vật có thể sử dụng kết hợp với tranh ảnh (như trong ví dụ 1) hay nhiều bài học cụ thể khác. Với những mẫu vật nhỏ, có thể quan sát bằng kính lúp sẽ giúp học sinh quan sát dễ dàng, chính xác và đầy đủ hơn, đồng thời củng cố và rèn luyện kỹ năng sử dụng dụng cụ nghiên cứu bộ môn. Ví dụ 3: Khi dạy tiết 46 (bài 38- Sinh học 6) Rêu - Cây rêu. Ở phần 2: Quan sát cây rêu. Qua hoạt động này, học sinh phải quan sát mẫu vật (cây rêu tường) để tìm và mô tả các cơ quan như rễ, thân, lá của cây rêu. Giáo viên có thể cho học sinh quan sát cây rêu bằng mắt thường, kết hợp hình 38.1 sgk để tìm hiểu các cơ quan của cây rêu. Tuy nhiên, rêu là thực vật có kích thước nhỏ, quan sát bằng mắt thường sẽ gặp khó khăn, đôi khi quan sát không rõ. Điều đó dễ phát sinh những nghi ngờ trong học sinh, thời gian quan sát lâu hơn mà hiệu quả không cao. Vì vậy, khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung này, tôi đã phát kính lúp cho học sinh (mỗi bàn một kính) để giúp các em quan sát nhanh chóng, rõ ràng chính xác mẫu vật. Đồng thời củng cố kỹ năng sử dụng kính lúp cho học sinh. Tiến trình tổ chức: HĐ Quan sát cây rêu. - Kiểm tra mẫu vật và yêu cầu học sinh để mẫu vật lên bàn (Các học sinh trong cùng một bàn sẽ quan sát và làm việc chung). - Phát kính lúp cho học sinh (mỗi bàn một kính). - Yêu cầu mỗi nhóm học sinh (mỗi bàn) tách lấy một cây rêu để quan sát. - GV hướng dẫn: Để cây rêu lên bàn, dùng kính lúp quan sát, đối chiếu với hình 38.1 sgk và nhận ra các bộ phận của cây rêu. - Các nhóm học sinh quan sát cây rêu bằng kính lúp, so sánh với hình 38.1 để nêu được các bộ phận của cây rêu mà nhóm đã nhận ra. - Nhóm khác nhận xét và bổ sung. - GV nhận xét và khẳng định kiến thức. Cấu tạo cây rêu gồm : + Thân ngắn, hình trụ không phân nhánh. + Lá nhỏ, mỏng. + Rễ giả, mọc thành chùm ở gốc thân. - Sau đó, yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin sgk để biết được rêu chưa có mạch dẫn. 2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn và nhắc nhở học sinh chuẩn bị mẫu vật cho từng bài học. Với học sinh lớp 6, việc thu thập mẫu vật cho bài học là không đơn giản. Cho dù mẫu vật rất gần gũi và dễ kiếm, tuy nhiên các em đang còn nhỏ, nhiều khi chưa phân biệt được các cây thường gặp xung quanh. Hơn nữa, các em lại mới làm quen với phương pháp học tập bộ môn nên nhiều khi các em quên đi việc chuẩn bị mẫu vật trước khi đến lớp. Sự chuẩn bị mẫu vật cho bài học thường bị thiếu, không đồng bộ, mẫu vật không đủ bộ phận, quá to, quá nhỏ nên hiệu quả sử dụng không cao. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, tôi đã nghiên cứu để cuối mỗi tiết học, dành ra một khoảng thời gian nhỏ để hướng dẫn chuẩn bị vật mẫu cho tiết học tiếp theo. Việc hướng dẫn, phân công được thực hiện một cách rõ ràng, cụ thể đến từng bàn, từng nhóm chuẩn bị những vật mẫu nào cho tiết học tới; cách thu thập mẫu vật; kích thước và các bộ phận cần có của mẫu vật; thời gian chuẩn bị mẫu vật Có những bài học mẫu vật phải chuẩn bị trước 3 ngày, năm ngày hay cả tuần, do đó khi soạn bài tôi đã nghiên cứu cả những bài sau xem cần mẫu vật gì để nhắc nhở, dặn dò cho kịp thời. Ví dụ 4: Khi dạy tiết 40 (bài 33-sinh học 6) – Hạt và các bộ phận của hạt. Với bài học này, học sinh cần chuẩn bị được mẫu vật là hạt đỗ đen đã ngâm nước một ngày, hạt ngô để trên bông ẩm từ 3- 4 ngày. Trong khi đó, theo thời khóa biểu của nhà trường thì tiết 40 dạy sau tiết 39 hai ngày. Như vậy việc nhắc nhở, dặn dò học sinh chuẩn bị mẫu vật phải được thực hiện ở cuổi tiết 38 (trước 1 tuần). Vì vậy khi soạn bài và tổ chức dạy học tiết 38, tôi đã dành ra thời gian 2 phút cuối giờ để nhắc nhở học sinh chuẩn bị cho
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_su_dung_mau_vat_de_nang_cao_hieu_qua_d.doc