SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh tiểu học

SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh tiểu học

Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Các môn học đó cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt trong chương trình. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc - kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông.

Song chỉ dừng lại ở kỹ năng đọc trơn, đọc thông thạo văn bản thì chưa đủ mà cần phải rèn cho học sinh đọc hiểu văn bản. Vậy mà trên thực tế giảng dạy, các em chủ yếu biết đọc thông mà chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Hay nói cách khác, làm thế nào để các em hiểu được "văn"? Làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em?

Muốn làm được những điều nói trên thì người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với giai đoạn hiện nay trên cơ sở hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, độc lập của học sinh.

Việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh là tác động tích cực tới tư duy người đọc, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy các em biết suy nghĩ một cách lô gíc cũng như biết tư duy có hình ảnh . Ngoài ra còn giáo dục tính cách, thị hiếu, thẩm mỹ cho học sinh. Một cách cụ thể, đọc hiểu một bài tập đọc có nghĩa là học sinh biết tìm ra ý hay xác định nội dung của bài. Để hướng dẫn học sinh rút ra nội dung bài thì người thầy có thể sử dụng nhiều phương pháp. Nhưng dù theo phương pháp nào đi chăng nữa thì vẫn không thể bỏ qua vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Đặc biệt là "rèn kỹ năng đọc hiểu" nội dung đưa ra phải được chau chuốt. Học sinh khó có thể tìm ra nội dung bài một cách dễ dàng. Người thầy phải hướng dẫn các em qua việc đặt hệ thống câu hỏi, mối quan hệ giữa các đoạn trong bài. Từ đó các em có thể tìm ra cách đọc hiểu một bài tập đọc một cách dễ dàng.

Như vậy" rèn kỹ năng đọc hiểu" là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ đối với bậc tiểu học mà đối với bất cứ bậc học nào. Nó rất cần thiết mà cũng chính là những trăn trở của giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng trong mỗi giờ Tập đọc, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy Tiếng Việt.

Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh Tiểu học".

 

doc 20 trang thuychi01 83148
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH TIỂU HỌC”
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nam Ngạn
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
 Trang 
Phần mở đầu 1
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung 3
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy đọc hiểu ở tiểu học 3
 * Cơ sở ngôn ngữ và văn học của dạy tập đọc
 * Ý nghĩa của đọc hiểu
 * Bản chất của quá trình đọc hiểu
 2.2. Thực trạng dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5 
 Trường Tiểu học Nam Ngạn 5
 * Thực trạng
 * Nguyên nhân của những hạn chế trên
 2.3. Một số giải pháp rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5 7
 2.4. Hiệu quả của việc áp dụng những giải pháp trên. 13
 3. Kết luận và kiến nghị 15
 3.1. Kết luận
 3.2. Kiến nghị
 Tài liệu tham khảo 16
1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1.Lí do chọn đề tài:
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Các môn học đó cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt trong chương trình. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc - kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông.
Song chỉ dừng lại ở kỹ năng đọc trơn, đọc thông thạo văn bản thì chưa đủ mà cần phải rèn cho học sinh đọc hiểu văn bản. Vậy mà trên thực tế giảng dạy, các em chủ yếu biết đọc thông mà chưa nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc. Hay nói cách khác, làm thế nào để các em hiểu được "văn"? Làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em?
Muốn làm được những điều nói trên thì người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với giai đoạn hiện nay trên cơ sở hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, độc lập của học sinh.
Việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh là tác động tích cực tới tư duy người đọc, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy các em biết suy nghĩ một cách lô gíc cũng như biết tư duy có hình ảnh ... Ngoài ra còn giáo dục tính cách, thị hiếu, thẩm mỹ cho học sinh. Một cách cụ thể, đọc hiểu một bài tập đọc có nghĩa là học sinh biết tìm ra ý hay xác định nội dung của bài. Để hướng dẫn học sinh rút ra nội dung bài thì người thầy có thể sử dụng nhiều phương pháp. Nhưng dù theo phương pháp nào đi chăng nữa thì vẫn không thể bỏ qua vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Đặc biệt là "rèn kỹ năng đọc hiểu" nội dung đưa ra phải được chau chuốt. Học sinh khó có thể tìm ra nội dung bài một cách dễ dàng. Người thầy phải hướng dẫn các em qua việc đặt hệ thống câu hỏi, mối quan hệ giữa các đoạn trong bài. Từ đó các em có thể tìm ra cách đọc hiểu một bài tập đọc một cách dễ dàng.
Như vậy" rèn kỹ năng đọc hiểu" là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ đối với bậc tiểu học mà đối với bất cứ bậc học nào. Nó rất cần thiết mà cũng chính là những trăn trở của giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng trong mỗi giờ Tập đọc, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy Tiếng Việt.
Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh Tiểu học".
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 4, 5, từ đó đưa ra những kinh nghiệm rèn "đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5" góp phần nâng cao hiệu quả của dạy tập đọc cho giáo viên Tiểu học.
- Từ những kinh nghiệm “rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5" trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi cũng sẽ đưa ra những giải pháp và áp dụng những giải pháp đó vào đối tượng học sinh Trường Tiểu học Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 4, 5 ở Trường Tiểu học Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu lý thuyết.
- Điều tra thực trạng.
- Tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận của việc dạy đọc hiểu ở Tiểu học:
* Cơ sở ngôn ngữ và văn học của dạy Tập đọc.
Đặc trưng của môn Tiếng Việt được thể hiện ở tất cả các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Khi sử dụng phương pháp dạy Tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học mà ngôn ngữ học có liên quan mật thiết đến vấn đề ngữ điệu. Dạy đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố (ngừng giọng, ngắt giọng) ngữ điệu là sự hoà hợp về âm hưởng của bài đọc. Nó có giá trị lớn để bộc lộ cảm xúc. Vì vậy sử dụng đúng ngữ điệu rất quan trọng trong việc rèn đọc hiểu cho học sinh. 
Việc dạy đọc cho học sinh không chỉ đơn thuần là đọc trơn mà phải hình thành kỹ năng đọc hiểu, đọc diễn cảm thì mới đánh giá được một văn bản tốt hay chưa tốt và mới thấy được tính chính xác, tính đúng đắn, và tính thẩm mỹ...của văn bản đó.
 - Từ năm học 2006- 2007 học sinh lớp 5 được học chương trình tiểu học mới ở tất cả các môn. Trong đó môn Tiếng Vịêt gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị học ứng với một chủ điểm học trong 3 tuần ( riêng chủ điểm Vì hạnh phúc con người được học trong 4 tuần), các chủ điểm học tập xoay quanh những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước, dân tộc và cả loài người như:
Tập Một gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần:
Yêu Tổ quốc ( Việt Nam – Tổ quốc em ) - tuần 1,2,3.
Bảo vệ hòa bình, vun đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc ( Cánh chim hòa bình) - tuần 4, 5, 6.
Sống hài hòa với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên (Con người với thiên nhiên) - tuần 7, 8, 9.
Bảo vệ môi trường (Giữ lấy màu xanh) - tuần 11, 12, 13.
Chống bệnh tật, đói nghèo, lạc hậu (Vì hạnh phúc con người ) - tuần 14, 15, 16, 17.
 Tuần 10 : Ôn tập giữa học kì I; Tuần 18 : Ôn tập cuối học kì I
 Tập Hai gồm 5 chủ điểm học trong 17 tuần:
Sống, làm việc theo pháp luật, xây dựng xã hội văn minh (Người công dân) - tuần 19, 20, 21.
Bảo vệ an ninh, trật tự xã hội (Vì cuộc sống thanh bình) - tuần 22, 23, 24.
Giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc (Nhớ nguồn) - tuần 25, 26, 27 
Thực hiện quyền bình đẳng (Nam và nữ ) - tuần 29, 30 , 31,
Thực hiện quyền của trẻ em (Những chủ nhân tương lai) - tuần 32, 33, 34.
 Tuần 28 : Ôn tập giữa học kì II; Tuần 35: Ôn tập cuối học kì II
Về nội dung, các bài tập đọc lớp 4 xoay quanh các chủ đề như sau:
* Tập 1 gồm 5 chủ điểm , học trong 18 tuần:
+“Thương người như thể thương thân ’’ (6 bài) – ( lòng nhân ái) - tuần 1,2,3
+  Măng mọc thẳng (6 bài) – ( tính trung thực, lòng tự trọng ) - tuần 4,5,6
 + Trên đôi cánh ước mơ (6 bài) – ( ước mơ) - tuần 7,8,9
 + Có chí thì nên (6 bài ) – ( nghị lực ) - tuần 11,12,13
+  Tiếng sáo diều (8 bài ) – (vui chơi) - Tuần 14,15,16,17
Tuần 10 ôn tập giữa học kì 1
Tập 2 gồm 5 chủ điểm , học trong 17 tuần:
+  Người ta là hoa đất (6 bài ) – (năng lực , tài trí) - tuần 19 , 20 , 21
+  Vẻ đẹp muôn màu (6 bài ) – óc thẩm mĩ - tuần 22,23,24
+ Những người quả cảm ( 6 bài ) – (lòng dũng cảm) - tuần 25,26,27
+  Khám phá thế giới (6 bài ) – ( du lịch thám hiểm ) - tuần 29 , 30 , 31 
+Tình yêu cuộc sống (6 bài ) – ( lạc quan, yêu đời ) tuần 32,33,34
Tuần 28 ôn tập giữa học kì 2. 
* Yêu cầu về kĩ năng đọc đối với học sinh lớp 4, 5 :
 + Đọc các văn bản nghệ thuật, khoa học, hành chinh, báo chí.
 + Đọc thầm 
 + Đọc diễn cảm đoạn văn,bài thơ, màn kịch ngắn.
 +Tìm hiểu ý nghĩa của bài văn, bài thơ và một số chi tiết có giá trị nghệ thuật trong bài văn, bài thơ. Nhận xét về nhân vật, hình ảnh và cách sử dụng từ ngữ trong bài văn, bài thơ.
 + Đọc thuộc một số bài văn, bài thơ.
 + Dùng từ điển học sinh hoặc các sách công cụ để tra cứu, ghi chép thông tin.
Riêng kỹ năng đọc hiểu (tìm hiểu ý nghĩa bài văn, bài thơ,...) quan trọng và chiếm nhiều thời gian hơn trong một tiết Tập đọc.
* Ý nghĩa của đọc hiểu.
Như ta đã biết, đọc không chỉ là sự "đánh vần" lên thành tiếng theo đúng các ký hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc. Chỉ khi biết cách hiểu sâu sắc, thấu đáo văn bản được đọc thì học sinh mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội những trí thức, tư tưởng, tình cảm của người khi chứa đựng trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi học các môn khác của nhà trường.
Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. 
* Bản chất của quá trình đọc hiểu.
 Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.
 Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào?
 Ngoài ra dạy đọc hiểu là giáo dục học sinh lòng ham đọc sách. Thông qua việc hiểu, làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời. Đọc hiểu giúp các em có vốn kiến thức về ngôn ngữ, đời sống kiến thức văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ.
 Nói tóm lại đọc hiểu là một hoạt động có quá trình rất rõ vì nó gồm nhiều hành động được trải ra theo tuyến tính thời gian.
- Hành động đầu tiên của quá trình đọc hiểu là hành động nhận đưa ngôn ngữ của văn bản tức là nhận đủ các tín hiệu ngôn ngữ mà người viết dùng để tạo ra văn bản.
- Hành động tiếp theo là hành động làm rõ nghĩa của các chuỗi tín hiệu ngầm.
- Hành động cuối cùng là hành động hỏi đáp lại ý kiến của người viết nêu trong văn bản này.
Dạy đọc hiểu là hình thành kỹ năng để tiến hành những hành động này.
2.2. Thực trạng dạy đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5 Trường Tiểu học Nam Ngạn.
* Thực trạng:
Về nội dung, kiến thức rất phù hợp với trình độ của lứa tuổi học sinh, nhiều bài mang tính giáo dục rất cụ thể, gần gũi với các em, mạch kiến thức là một chuỗi tích hợp theo từng chủ điểm hay trong toàn bộ chương trình Tập đọc lớp 4,5 từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Song đối với học sinh tiểu học nói chung, với học sinh Trường Tiểu học Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa thuộc vùng ven của thành phố nói riêng - điều kiện kinh tế khó khăn, dân trí thấp, phụ huynh ít có điều kiện quan tâm tới việc học hành của con em mình nên việc đọc hiểu ở phân môn Tập đọc của các em còn rất nhiều hạn chế. Việc chuyển tải những kiến thức một cách dễ hiểu nhất đến với học sinh là một điều trăn trở lớn của người giáo viên. Phải biết đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp, dễ hiểu, hấp dẫn để khơi gợi sự tò mò, niềm hứng thú của các em trong mỗi giờ Tập đọc.
Qua việc dự giờ các đồng chí giáo viên lớp 4,5 trong trường và thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc, tôi nhận thấy hầu như các đồng chí dạy đều tương đối tốt, nắm vững quy trình, phương pháp, vận dụng linh hoạt các hình thức lên lớp trong quá trình dạy tập đọc. Giáo viên đọc mẫu hay, học sinh đọc to, rõ ràng, mạch lạc, có một số em rất tích cực xây dựng bài, tích cực tham gia trả lời câu hỏi. Song bên cạnh đó còn có một bộ phận học sinh (chiếm tỷ lệ nhiều) chưa đạt yêu cầu về kỹ năng đọc hiểu. Trong rất nhiều giờ tập đọc đã dự, tôi thấy nhiều học sinh không hề giơ tay khi cô giáo đặt câu hỏi giải nghĩa từ, hay tìm ý, nội dung của bài. Có nghĩa là kỹ năng đọc hiểu của các em còn rất hạn chế.
 Qua khảo sát chất lượng đọc hiểu của các lớp 4,5 tôi thu được kết quả sau:
Lớp
Sĩ số
Số HS hiểu văn bản
Số HS chưa hiểu văn bản
5A
21
12
9
5B
20
10
10
4
27
17
10
Số HS chưa hiểu văn bản nghĩa là trong suốt quá trình tìm hiểu bài các em HS này không hề giơ tay phát biểu ý kiến, hoặc nếu GV có chỉ định thì em đó cũng không thể trả lời đầy đủ theo ý muốn của GV.
* Nguyên nhân của những hạn chế trên.
 1. Giáo viên chưa chú trọng đến hình thức đọc thầm.
Qua thực tế dự giờ tập đọc ở lớp 4, 5 tôi thấy khi thực hiện một giờ tập đọc GV thường dạy theo quy trình sau (phần bài mới).
- GV giới thiệu bài.
- 1 HS khá đọc - lớp đọc thầm bài 1 lần (hoặc có GV chuyển bước đọc thầm này xuống phần tìm hiểu bài).
- Đọc theo cặp
- GV đọc mẫu, HS chú theo dõi.
- Tìm hiểu bài kết hợp đọc thầm.
- Luyện đọc diễn cảm.
Như vậy là trong một tiết tập đọc GV chỉ phát lệnh cho học sinh đọc thầm bài rất ít, lại rất hình thức. Có giờ tập đọc GV vừa yêu cầu "các em đọc thầm bài" lại hỏi luôn câu hỏi. GV không hề có ý thức coi trọng việc đọc thầm, không kiểm tra HS có đọc thầm không và thực tế thì có rất nhiều em không tham gia đọc thầm.
2. Giáo viên chưa quan tâm đến phương pháp rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh. 
Thực tế dạy đọc biểu hiện này ở trường Tiểu học là GV nêu câu hỏi, HS trả lời, GV yêu cầu HS khác nhận xét đánh giá câu trả lời của bạn sau đó là GV nhận xét, chốt lại câu trả lời đúng nhất của HS. GV chỉ nêu câu hỏi và chờ đợi những câu trả lời đúng mà không biết, không quan tâm đến quá trình đọc diễn ra như thế nào? HS làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. GV mới chỉ quan tâm đến kết quả - các nội dung, kiến thức bài đọc, đem lại mà chưa quan tâm đến phương pháp để đạt được kết quả này.
- Việc tìm hiểu đề tài của văn bản chưa được xác định kỹ. Đề tài của văn bản thường nằm trong chủ điểm. Thực tế trong khi dạy tập đọc, GV rất hay quên khi cho HS nắm được bài tập đọc này thuộc vào chủ điểm gì.
- Việc tìm hiểu tên bài tập đọc hầu như không có. GV dạy chủ yếu coi tên bài tập đọc chỉ là tên để gọi - như một danh từ chứ chưa cho HS tìm hiểu, nhận biết tên bài tập đọc thường thể hiện ý chính, nội dung của bài. 
- Việc tìm hiểu và giải nghĩa từ ngữ trong bài tập đọc còn qua loa, đại khái. Trong thực tế dạy học hiện nay, việc phát hiện từ mới trong bài tập đọc không phải do HS phát hiện mà đa số từ phía GV. GV lấy những từ đó ra từ SGV, và kết hợp giải nghĩa trong quá trình tìm hiểu bài.
Một vài HS biết giơ tay trả lời sau đó GV giải thích. Và cứ như vậy, các từ GV đưa ra chỉ sử dụng độc nhất một hình thức hỏi đáp “di danh định nghĩa”. Chỉ có một số HS hoạt động còn lại và đa số các em không hiểu thì cứ việc ngồi yên. Vì vậy trong khi dạy tập đọc, ít có HS hiểu được cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh.
- Việc xác định nội dung của đoạn gặp nhiều khó khăn: Đó là do GV chưa hướng dẫn HS tìm ra câu quan trọng của đoạn để xác định ý. Hiện nay, khi dạy cho HS tìm ý của đoạn, GV tiến hành hỏi một vài câu hỏi sau đó cho HS tìm ý của đoạn. Chỉ vài HS tham gia trả lời câu hỏi là hiểu, tìm được ý của đoạn. Còn lại hầu như các em không thể tìm được. Nếu như GV quan tâm đến việc tìm ra câu quan trọng của đoạn thường nằm ở đầu, cuối đoạn sẽ rất nhiều HS tìm được ý chính của đoạn.
- Việc tìm hiểu nội dung chính và mục đích thông báo của văn bản hiện nay GV thường gộp chung làm một và được xác định ở cuối bài sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài xong, thường hay hỏi: "Nội dung bài này nói gì?" hay “Qua bài này, tác giả muốn nói với em điều gì?”. Và số lượng HS trả lời tìm ra được nội dung rất hạn hữu có giờ tập đọc chỉ có 2 - 3 em là tìm được.
Khả năng hỏi đáp văn bản của HS còn rất đơn điệu, non nớt bởi vì việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục thường được GV chắp đuôi vào cuối giờ học bằng một bài diễn thuyết dài dòng hoặc bằng một công thức máy móc . 
2.3. Một số giải pháp rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5
Rèn đọc hiểu là kỹ năng quan trọng của dạy tập đọc lớp 4,5. Từ những mặt được, mặt hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đã phân tích ở trên, việc đưa ra một hệ thống những giải pháp để khắc phục những hạn chế là qua quá trình đọc hiểu cho học sinh lớp 4,5 là cần thiết và cấp bách. Sau đây tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã thực hiện.
Giải pháp 1: Coi trọng hình thức đọc thầm.
- Đọc thầm là hình thức đọc không phát ra âm thanh mà chuyển trực tiếp từ ký tự sang nghĩa để hiểu văn bản. Đọc thành tiếng và đọc thầm nằm trong thế đối lập, sóng đôi. Đối với HS lớp 5 thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn thành tiếng ở chỗ nhanh hơn từ 1,5 đến 2 lần và để tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản thì đọc thầm giúp các em hiểu nhanh và sâu sắc hơn.
 - Hiệu quả của việc dạy đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu văn bản. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp HS hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài,...tức là toàn bộ những gì đọc. Các biện pháp có thể áp dụng là: giao nhiệm vụ để định hướng rõ yêu cầu đọc thầm của HS (đọc câu nào? đoạn nào?, đọc để trả lời câu hỏi hay để nhớ, để thuộc lòng, đọc để trả lời câu hỏi nào?).
Giới hạn thời gian để tăng dần tốc độ đọc thầm cho HS và tăng dần độ khó của nhiệm vụ (đọc lướt để tìm từ ngữ hay chi tiết, hình ảnh nhất định trong một, hai phút, đọc lướt để nêu nội dung chính của đoạn, của bài trong một, hai phút).
Ví dụ 1. Trong bài “Đất Cà Mau” (TV 5 tập 1 trang 89), GV cho HS đọc thầm với các yêu cầu sau:
 1. Đọc thầm toàn bài:
Đọc thầm toàn bài và cho biết mỗi đoạn văn tác giả miêu tả sự vật gì?
HS đọc thầm và tìm ý, sau đó nêu:
+ Đoạn 1: Miêu tả mưa ở Cà Mau.
+ Đoạn 2: Miêu tả cây cối và nhà cửa ở Cà Mau.
+ Đoạn 3: Con người Cà Mau.
2. Đọc thầm theo đoạn
Đọc thầm đoạn 1 và trả lời câu hỏi tương ứng với đoạn 1: 
- Mưa ở Cà Mau có gì khác thường?
Đọc thầm đoạn 2 và trả lời câu hỏi tương ứng với đoạn 2:
- Cây cối trên đất Cà Mau mọc ra sao?
- Người Cà Mau dựng nhà cửa như thế nào?
Đọc thầm đoạn 3 và trả lời câu hỏi tương ứng với đoạn 3:
Người Cà Mau có tính cách như thế nào?
Ví dụ 2: Bài “Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà”   (TV5 tập 1 trang 69), 
GV cho HS đọc thầm với các yêu cầu sau:
 1. Đọc thầm toàn bài:
HS đọc thầm toàn bài để tìm câu thơ miêu tả cảnh đẹp đêm trăng trên sông Đà?
(Câu Một đêm trăng chơi vơi). Hay đọc thầm để tìm câu thơ có sử dụng biện pháp nhân hóa (Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông/ Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ)
2. Đọc thầm câu để tìm từ ngữ được nhân hóa trong câu thơ (say ngủ, ngẫm nghĩ)
Ví dụ 3: Bài “Hạt gạo làng ta” (TV5 tập 1 trang 139 ), 
GV cho HS đọc thầm với các yêu cầu sau:
 1. Đọc thầm toàn bài thơ để trả lời các câu hỏi cuối bài.
 2. Đọc thầm toàn bài để nhầm học thuộc lòng từng khổ thơ, cả bài thơ.
 Hay Khi dạy bài “Nghĩa thầy trò ” (TV 5 Tập 2 trang 79), GV sử dụng các lần đọc thầm sau:
+ Đọc thầm lần 1: Sau khi giới thiệu bài, 1 HS khá đọc bài, cả lớp đọc thầm theo bạn để nắm nội dung bài .
+ Đọc thầm lần 2: Trong khi các bạn đọc nối tiếp đoạn (3 lượt), cả lớp cũng đọc thầm theo (3 lượt) để luyện phát âm và hiểu thêm về các từ ngữ trong bài.
+ Đọc thầm lần 3: Trước khi tìm hiểu nội dung câu hỏi 1 (hoặc nội dung đoạn 1) cho HS đọc thầm đoạn 1.
+ Đọc thầm lần 4: Trước khi tìm hiểu nội dung câu hỏi 2 (hoặc nội dung đoạn 2) cho HS đọc thầm đoạn 2.
+ Đọc thầm lần 5: Trước khi tìm hiểu nội dung câu hỏi 3 (hoặc nội dung đoạn 3) cho HS đọc thầm đoạn 3.
+ Đọc thầm lần 6: Trước khi luyện đọc diễn cảm bài, cho HS đọc thầm để tìm ra giọng đọc của bài.
 Như vậy, HS đã được đọc thầm nhiều lần trước khi phân tích nội dung bài kết hợp với đọc cá nhân thành tiếng để HS nắm đươc nội dung văn bản. Việc đọc thành tiếng và đọc thầm đã được kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn với nhau. 
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh hiểu đề tài (chủ điểm) của văn bản.
Có thể hiểu đề tài (chủ điểm) của một văn bản là đối tượng và vấn đề chính mà văn bản ấy biểu đạt.
Xác định đề tài văn bản là HS phải trả lời được câu hỏi văn bản nói về cái gì, về việc gì, về ai?.
Để xác định đề tài văn bản, nhiều khi phải dựa vào chủ điểm bài tập đọc.
 Ví dụ: khi dạy bài tập đọc “ Cửa sông" (TV5 tập 2 trang 74), HS rất băn khoăn và khó khi trả lời câu hỏi 4 cuối bài: 
Phép nhân hóa ở khổ thơ cuối giúp tác giả nói lên điều gì về “tấm lòng” của cửa sông đối với cội nguồn?
Nếu ta xác định được bài thơ nằm trong chủ điểm “Nhớ nguồn” thì học sinh sẽ trả lời được: “tấm lòng” của cửa sông là không quên cội nguồn. 
Cũng có bài tập đọc có tranh minh họa, GV hướng dẫn HS quan sát kỹ tranh sẽ nhận ra được c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_ren_ki_nang_doc_hieu_cho_hoc_sinh_tieu.doc