SKKN Một số giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học phần “Đại cương về kim loại” Hóa học 12 ban cơ bản tại trường THPT Hà Văn Mao

SKKN Một số giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học phần “Đại cương về kim loại” Hóa học 12 ban cơ bản tại trường THPT Hà Văn Mao

Vấn đề học sinh học yếu các môn học trong các trường học luôn là mối quan tâm, trăn trở của các nhà quản lí giáo dục, của nhiều giáo viên, giải quyết được điều này là góp phần nâng cao chất lượng HS của nhà trường. Để nâng dần chất lượng HS không phải là chuyện một sớm một chiều mà nó đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm của người GV. Phụ đạo HS yếu kém phải được giáo viên quan tâm, nhất là trong tình hình học tập hiện nay của HS. Nhưng phụ đạo như thế nào, phương pháp ra sao thì đó cũng là một vấn đề đòi hỏi GV cần phải không ngừng tìm hiểu.

 Việc phụ đạo HS học yếu các môn học là một trong những vấn đề rất quan trọng, cấp bách, cần thiết và không thể thiếu trong mỗi môn học ở các cấp học nói chung và ở cấp Trung học phổ thông nói riêng. Ở giai đoạn này HS phải chuẩn bị kiến thức, kĩ năng vững vàng để chuẩn bị cho kì thi THPT quốc gia. Tuy nhiên, HS cũng phải nhanh chóng tiếp cận được phương pháp dạy học mới đang được triển khai: HS học theo hướng tích cực, độc lập, chủ động nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo,. để lĩnh hội và vận dụng kiến thức.

 Đối với bộ môn Hóa học tại trường THPT Hà Văn Mao những năm gần đây số HS hứng thú với môn hóa học giảm đi rất nhiều Nhiều học sinh khối 10, khối 11 vẫn còn xếp học lực yếu bộ môn hóa học. Số HS đăng kí thi THPT quốc gia môn hóa học chỉ khoảng 1/3 số HS khối 12. Nguyên nhân là do nhiều em còn yếu môn học này, nhiều em chưa nắm vững kiến thức cơ bản, một số em khác lại không thể vận dụng kiến thức để giải bài tập,. Vì vậy, việc phụ đạo cho HS học yếu môn hóa học ở trường THPT Hà Văn Mao là rất cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho HS, để các em tự mình chiếm lĩnh tri thức, vận dụng được kiến thức, các công thức Hóa học vào giải các bài tập có liên quan.

 

doc 18 trang thuychi01 9012
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học phần “Đại cương về kim loại” Hóa học 12 ban cơ bản tại trường THPT Hà Văn Mao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài
	Vấn đề học sinh học yếu các môn học trong các trường học luôn là mối quan tâm, trăn trở của các nhà quản lí giáo dục, của nhiều giáo viên, giải quyết được điều này là góp phần nâng cao chất lượng HS của nhà trường. Để nâng dần chất lượng HS không phải là chuyện một sớm một chiều mà nó đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm của người GV. Phụ đạo HS yếu kém phải được giáo viên quan tâm, nhất là trong tình hình học tập hiện nay của HS. Nhưng phụ đạo như thế nào, phương pháp ra sao thì đó cũng là một vấn đề đòi hỏi GV cần phải không ngừng tìm hiểu.
	Việc phụ đạo HS học yếu các môn học là một trong những vấn đề rất quan trọng, cấp bách, cần thiết và không thể thiếu trong mỗi môn học ở các cấp học nói chung và ở cấp Trung học phổ thông nói riêng. Ở giai đoạn này HS phải chuẩn bị kiến thức, kĩ năng vững vàng để chuẩn bị cho kì thi THPT quốc gia. Tuy nhiên, HS cũng phải nhanh chóng tiếp cận được phương pháp dạy học mới đang được triển khai: HS học theo hướng tích cực, độc lập, chủ động nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo,... để lĩnh hội và vận dụng kiến thức. 
	Đối với bộ môn Hóa học tại trường THPT Hà Văn Mao những năm gần đây số HS hứng thú với môn hóa học giảm đi rất nhiều Nhiều học sinh khối 10, khối 11 vẫn còn xếp học lực yếu bộ môn hóa học. Số HS đăng kí thi THPT quốc gia môn hóa học chỉ khoảng 1/3 số HS khối 12. Nguyên nhân là do nhiều em còn yếu môn học này, nhiều em chưa nắm vững kiến thức cơ bản, một số em khác lại không thể vận dụng kiến thức để giải bài tập,... Vì vậy, việc phụ đạo cho HS học yếu môn hóa học ở trường THPT Hà Văn Mao là rất cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần tạo hứng thú học tập môn Hóa học cho HS, để các em tự mình chiếm lĩnh tri thức, vận dụng được kiến thức, các công thức Hóa học vào giải các bài tập có liên quan.
	Trong chương trình Hóa học lớp 12 phần Kim loại và hợp chất của kim loại chiếm khoảng một nửa chương trình. Bên cạnh đó, số lượng các câu hỏi liên quan đến kim loại trong các đề thi tốt nghiệp THPT, Cao đẳng, Đại học, THPT quốc gia những năm qua cũng luôn chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy, GV cần phải có phương pháp phù hợp để hướng dẫn HS học tốt phần này, đặc biệt là các HS học yếu môn hóa. Trong phần kim loại, chương: "Đại cương về kim loại” vô cùng quan trọng, HS nắm vững kiến thức chương này sẽ thuận lợi trong việc học các kim loại cụ thể trong các chương sau. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học phần “Đại cương về kim loại” Hóa học 12 ban cơ bản tại trường THPT Hà Văn Mao" làm SKKN trong năm học này. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
 - Tìm hiểu những nguyên nhân HS học yếu môn Hóa ở trường THPT Hà Văn Mao. Từ đó tìm ra giải pháp phụ đạo phù hợp.
	- Nâng cao chất lượng giáo dục của trường THPT Hà Văn Mao ở bộ môn Hóa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 - Các giải pháp phụ đạo HS học yếu bộ môn Hóa học
	- HS một số lớp 12 tại trường THPT Hà Văn Mao
1.4. Các phương pháp nghiên cứu
	+Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu các tài liệu, các trang web, bài viết có liên quan
 	+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tiễn: Tìm hiểu nguyên nhân HS học yếu môn Hóa lớp 12 ở các lớp mình phụ trách và đưa ra giải pháp phụ đạo hiệu quả.
Phần 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề 
 Nghị quyết số 29/NQ- TW ngày 4/ 11/ 2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo coi “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”; “ Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”; “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Để thực hiện được mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra thì mỗi cán bộ, GV phải không ngừng nổ lực tìm các giải pháp phù hợp với đối tượng HS nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở đơn vị mình công tác. Bên cạnh việc đầu tư nâng cao chất lượng mũi nhọn, chất lượng đại trà thì việc đầu tư giúp đỡ HS yếu kém là vấn đề cấp thiết.
 Hiểu một cách đơn giản, HS học yếu môn hóa học là những học sinh có khả năng tiếp thu kiến thức môn hóa chậm, khả năng vận dụng thấp; những học sinh lười học, từ đó dẫn đến kết quả học tập môn hóa thấp.
 Đối tượng HS học yếu có những khác biệt về cách nhận thức, hoàn cảnh gia đình, kinh tế, lười học hoặc thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Vì vậy GV cần phải quan tâm hỗ trợ các em trong học tập để các em có thể vượt qua các rào cản tâm lí, những vấn đề khó khăn trong học tập.
2.2. Thực trạng của vấn đề
 	 Hiện nay việc dạy và học môn hóa học ở trường THPT Hà Văn Mao còn gặp rất nhiều khó khăn, do cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế: Chưa có phòng thí nghiệm, chưa có nhiều tài liệu tham khảo cho HS, chất lượng đầu vào của HS thấp. Đặc điểm của trường là thuộc miền núi cao của tỉnh Thanh Hóa, đa số HS của trường thuộc khu vực đặc biệt khó khăn, điều kiện đi học của HS còn vất vả, nhà xa trường, nhiều học sinh phải trọ học thiếu sự giám sát của gia đình, nhiều học sinh phải nghỉ học trong mùa mưa lũ vì đường bị ngập lụt không thể đến trường. Mặt khác, nhiều học sinh ham chơi điện tử, facebook nên không tập trung cho việc học, một số học sinh lại có tính ỷ lại, lười suy nghĩ, không chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ học thì lơ là không tập trung,...dẫn đến kết quả học tập thấp.
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Xác định đối tượng học sinh học yếu môn hóa học
 - Dựa vào điểm bộ môn Hóa của năm lớp 10 và lớp 11, tham khảo thêm điểm một số môn học có liên quan ví dụ như Toán, Lý, Sinh.
 - Dựa vào những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm hiện tại.
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu môn hóa học
	2.3.2.1. Về phía học sinh
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng đa số các em học sinh học yếu môn hóa là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, không làm bài tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương pháp và động cơ học tập đúng đắn.
- Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Đa số HS của trường đều ở nông thôn, gia đình chủ yếu là sống bằng nghề nông, các em ở nhà phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn nuôi; thậm chí có học sinh phải đi làm thêm trái buổi để kiếm tiền ăn học.
	- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới: Qua quá trình giảng dạy tôi thấy chưa nắm vững kiến thức cơ bản môn hóa từ lớp dưới còn khá nhiều.
 - Nhiều học sinh ham chơi điện tử, facebook dành quá nhiều thời gian cho những việc này dẫn tới không còn chú tâm tới việc học.
 - Một số học sinh tâm lí chưa tốt, chán nản với hoàn cảnh gia đình như bố mẹ li dị, bố mẹ thường xuyên cải nhau, dẫn đến bất cần nên không học. 
	2.3.2.2. Về phía giáo viên 
	Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở HS mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên:
 - Còn một số GV chưa thực sự chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu kém. Chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của HS.
 - Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho HS yếu kém không theo kịp.
	- Một số GV chưa thật sự chịu khó, tâm huyết với nghề, chưa thật sự “giúp đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự yếu kém của chính mình không tự vươn lên...
	 2.3.2.3. Về phía phụ huynh: Còn một số phụ huynh HS :
	- Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em mình. Phó mặc mọi việc cho nhà trường và thầy cô. Một số gia đình bố mẹ đi làm ăn xa thiếu điều kiện chăm sóc con cái.
 - Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm khiến các em không chú tâm vào học tập.
 - Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, đi dự đám cưới, đi du lịch, giả bệnh,...) cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản dẫn đến kết quả học tập giảm sút.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu môn Hóa học mà bản thân tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những nguyên nhân đó, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học như sau:
2.3.3. Một số giải pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Hóa học
	2.3.3.1. Giải pháp chung
	- Xây dựng môi trường học tập thân thiện
	Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp giáo dục đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười, giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn cho học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
	Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
	- Phân loại đối tượng học sinh
	Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh học yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát, ham chơi
	Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh học yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. 
	Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
	Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu kém khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
 - Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
	Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
 Giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
	- Kèm cặp học sinh học yếu 
 	Tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn có học lực yếu về cách học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức.
	Tổ chức kèm cặp, phụ đạo cho các em. Trong các buổi này, giáo viên chủ yếu kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu thấy các em chưa chắc, nên tiến hành ôn tập củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn. Hướng dẫn phương pháp học tập: học bài, làm bài, việc tự học ở nhà
	Phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập, đôn đốc thực hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
	2.3.3.2. Giải pháp cụ thể
 - Lập danh sách học sinh học yếu môn Hóa học tại các lớp mình phụ trách thông qua bài kiểm tra chất lượng đầu năm và quá trình học tập trên lớp để tổ chức phụ đạo cho các em.
	- Điểm danh học sinh mỗi buổi học, ghi nhận và báo với GVCN những trường hợp học sinh bỏ học phụ đạo để có biện pháp khắc phục.
	 - Thường xuyên trao đổi, phối hợp với cha mẹ học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
	- Xác định rõ kiến thức trọng tâm, kiến thức nền (những kiến thức cơ bản, có nắm được những kiến thức này mới giải quyết được những câu hỏi và bài tập) trong tiết dạy cần cung cấp, truyền đạt cho học sinh.
	- Đối với học sinh học yếu không nên mở rộng, chỉ dạy phần trọng tâm, cơ bản, làm bài tập nhiều lần và nâng dần mức độ của bài tập sau khi các em đã nhuần nhuyễn dạng bài tập đó.
	- Nhắc lại kiến thức kiến thức cơ bản, công thức cần nhớ mà các em đã hổng, cho bài tập lý thuyết khắc sâu để học sinh nhớ lâu.
 - Đối với bài tập GV cần hướng dẫn học sinh biết cách xác định các dữ kiện đề cho, vận dụng công thức và định hướng cách giải.
 2.3.3.3. Kiến thức cụ thể cần phụ đạo cho học sinh học yếu môn Hóa học phần“ Đại cương về kim loại”.
 Trong phần này nên hướng dẫn học sinh học nắm chắc lí thuyết và hướng dẫn học sinh làm một số dạng bài tập cơ bản sau: 
2.3.3.3.1. Kiến thức cần nắm vững	
a. Đặc điểm cấu tạo: 
- Số electron lớp ngoài cùng ít (1,2,3 e).
- Bán kính nguyên tử lớn.
- Độ âm điện nhỏ.
- Năng lựong ion hóa nhỏ.
b. Tính chất hóa học: Do đặc điểm cấu tạo nguyên tử như trên nên khi tham gia phản ứng các kim loại thường có khuynh hướng nhường electron và thể hiện tính khử.
M →Mn+ +ne 
 - Tác dụng với phi kim.
VD: 	2Fe + 3Cl2 → 2FeCl3 
 	3Fe + 2O2 → Fe3O4
 	2Na + S → Na2S (Trừ Hg tham gia được ở điều kiện thường còn các kim loại khác phải cần có nhiệt độ).
- Tác dụng với axit:
 Với các axit có tính OXH yếu: HCl, H2SO4(loãng)
- Chỉ có những kim loại đứng trước H2 trong dãy hoạt động hóa học mới tham gia phản ứng.
- Khi tham gia phản ứng kim loại bị OXH đến mức OXH thấp và giải phóng sản phẩm khử là khí H2. 
VD:	Fe + 2HCl → FeCl2 + H2
	Fe + H2SO4(loãng) → FeSO4 + H2	
	Cu + HCl → không xảy ra phản ứng.
 Với các axit có tính OXH mạnh: H2SO4 đậm đặc, HNO3
- Tác dụng hầu hết với các kim loại trừ vàng và bạch kim
- Khi tham gia phản ứng kim loại bị OXH đến mức OXH cực đại và giải phóng sản phẩm khử là các chất S, SO2, N2, N2O, NO, NO2, NH4NO3
VD:	2Fe + 6H2SO4 đặc nóng → Fe2(SO4)3 + 3SO2 + 3H2O.
	3Cu + 8HNO3 loãng → 3Cu(NO3)2 + 2NO + 4H2O
* Lưu ý: 
- Tùy thuộc vào độ mạnh yếu của kim loại, độ đặc loãng của axít tham gia phản ứng điều kiện của phản ứng mà sản phẩm khử là chất này hoặc chất khác (Đối với các kim loại trung bình và yếu khi tham gia phản ứng với HNO3 loãng thường cho sản phẩm là NO, còn khi tham gia với HNO3 đặc thì thường cho sản phẩm là NO2) .
- Các kim loại Al, Fe, Cr thụ động với H2SO4 đặc nguội và HNO3 đặc nguội. 
- Tác dụng với dung dịch muối: 
* Chỉ có những kim lọai có tính khử mạnh hơn mới đẩy được kim loại có tính khử yếu hơn ra khỏi dung dịch muối. 
VD:	Fe + CuSO4 → FeSO4 + Cu.
	Cu + 2AgNO3 → Cu(NO3)2 + 2Ag	
	* Các kim loại mạnh như: KLK, KLKT (trừ Mg và Be) khi tác dụng với các dung dịch muối cho ra hidroxit không tan tương ứng + muối mới và giải phóng khí H2
	VD 	2Na + 2H2O + CuSO4 → Cu(OH)2 + Na2SO4 + H2
 - Tác dụng với H2O: Các kim loại kiềm và kim loại kiềm thổ tác dụng được với H2O ở điều kiện thường.
VD: 	2Na + 2H2O → 2NaOH + H2 
	Ba + 2H2O → Ba(OH)2 + H2
	- Các kim loại trung bình tác dụng được với H2O ở nhiệt độ cao
	VD:	3Fe + 4H2O → Fe3O4 + 4H2
	- Các kim loại yếu không tác dụng được với H2O
* Lưu ý: Al, Zn, Mg, Be không tham gia phản ứng với H2O vì có lớp màng oxit bền vững bảo vệ không cho H2O tiếp xúc với lớp kim loại bên trong. Nhưng trong môi trường bazơ mạnh Al, Zn tan được trong H2O theo các phản ứng sau: 
	2Al + 2NaOH + 2H2O → 2NaAlO2 +3H2.
	 Zn + 2NaOH → Na2ZnO2 + H2.
- Tác dụng với oxit kim loại: Trong điều kiện nhiệt độ cao các kim loại có tính khử mạnh có khử được các oxit kim loại thành kim loại tự do.
VD: 	2Al + Fe2O3 → Al2O3 + 2Fe
	 2Al + Cr2O3 → 2Al2O3 + 2Cr 
c. Dãy hoạt động hóa học của kim loại: Là một dãy gồm các cặp OXH-K được sắp xếp theo chiều tăng dần về tính OXH của ion kim loại và giảm dần về tính khử của kim loại. 
 Tính OXH của ion kim loại tăng dần
K+ Ca2+ Na+ Mg2+ Al3+ Zn2+ Fe2+ Ni2+ Sn2+ Pb2+ 2H+ Cu2+ Fe3+ Hg2+ Ag+ Pt2+ Au3+ 
K Ca Na Mg Al Zn Fe Ni Sn Pb H2 Cu Fe2+ Hg Ag Pt Au 
	 Tính khử của kim loại giảm dần 
d. Điều chế kim loại: 
- Nguyên tắc: Thực hiện quá trình khử ion kim loại trong các các hợp chất thành kim loại tự do: Mn+ + ne → M
- Phương pháp: 
 Phương pháp thủy luyện: Dùng kim loại có tính khử mạnh đẩy kim loại có tính khử yếu ra khỏi dung dịch muối. 
VD:	 Fe + CuSO4 → FeSO4 + Cu.
	Cu + 2AgNO3 → Cu(NO3)2 + 2Ag	
 Phương pháp nhiệt luyện: Dùng các chất khử: Al, C, CO, H2 khử ion kim loại trong các oxit thành kim loại tự do ở nhiệt độ cao.
VD: 	2Al + Fe2O3 → Al2O3 + 2Fe (Phản ứng nhiệt nhôm).
	CuO + H2 → Cu + H2O 
 Phương pháp điện phân: Dùng dòng điện một chiều để khử ion kim loại ở catot thành kim loại tự do.
* Điện phân nóng chảy: Dùng để điều chế các kim loại mạnh.
 ĐPNC
VD	2NaCl 	 2Na + Cl2 
* Điện phân dung dịch: Điều chế hầu hết các kim loại.
 ĐPDD
VD:	CuCl2 	 Cu + Cl2
	 ĐPDD
	4AgNO3 + 2H2O	 4Ag + 4HNO3 + O2 
e. Ăn mòn kim loại: Là sự phá hủy kim loại do tác dung của các chất trong môi trường.
- Ăn mòn hóa học: Là sự phá hủy kim loại do kim loại tác dụng trực tiếp với các chất của môi trường, trong đó các electron của kim loại chuyển trực tiếp đến các chất của môi trường.
VD: Sắt bị OXH do tác dụng với oxi không khí, hơi nước ở nhiệt độ cao. 
- Ăn mòn điện hóa (phổ biến): Là sự phá hủy kim loại do kim loại tiếp xúc với chất điện li sinh ra dòng điện. 
g. Chống ăn mòn điện hóa: 
- Phương pháp bảo vệ bề mặt: Phủ lên bề mặt kim loại một lớp sơn, dầu mỡ, chất dẻo hoặc mạ, tráng lớp bề mặt kim loại một lớp kim loại hoặc hợp kim chống gỉ, dùng chất kìm hãm.
- Phương pháp điện hóa: Dùng một kim loại có tình khử mạnh hơn để bảo vệ kim loại có tính khử yếu hơn.
2.3.3.3.2.Một số dạng câu hỏi lý thuyết 
Dạng 1. Vị trí của kim loại trong BTH
Câu 1: Số electron lớp ngoài cùng của các nguyên tử kim loại thuộc nhóm IIA là
A. 3. 	B. 2. 	C. 4. 	D. 1.
Câu 2: Số electron lớp ngoài cùng của các nguyên tử kim loại thuộc nhóm IA là
A. 3. 	B. 2. 	C. 4. 	D. 1.
Câu 3: Công thức chung của oxit kim loại thuộc nhóm IA là
A. R2O3. 	B. RO2. 	C. R2O. 	D. RO. 
 (Trích:Bộ đề trắc nghiệm- Luyện thi THPT quốc gia năm 2017)
Câu 4: Công thức chung của oxit kim loại thuộc nhóm IIA là
A. R2O3. 	B. RO2. 	C. R2O. 	D. RO.
Câu 5: Cấu hình electron của nguyên tử Na (Z =11) là
A. 1s22s2 2p6 3s2. 	 B. 1s22s2 2p6. 	
C. 1s22s22p63s1. 	 D. 1s22s22p6 3s23p1.
Câu 6: Hai kim loại đều thuộc nhóm IIA trong bảng tuần hoàn là
A. Sr, K. 	B. Na, Ba. 	C. Be, Al. 	D. Ca, Ba.
Câu 7: Hai kim loại đều thuộc nhóm IA trong bảng tuần hoàn là
A. Mg, K. 	B. Na, K. 	C. Be, Al. 	D. Ca, Ba.
Câu 8: Nguyên tử Fe có Z = 26, cấu hình e của Fe là
A. [Ar ] 3d6 4s2. B. [Ar ] 4s13d7.	C. [Ar ] 3d7 4s1. D. [Ar ] 4s23d6.
 (Trích:Bộ đề trắc nghiệm- Luyện thi THPT quốc gia năm 2017)
Câu 9: Nguyên tử Cu có Z = 29, cấu hình e của Cu là
A. [Ar ] 3d9 4s2. 	B. [Ar ] 4s23d9.	
C. [Ar ] 3d10 4s1. 	D. [Ar ] 4s13d10.
Câu 10: Cation M+ có cấu hình electron lớp ngoài cùng 2s22p6 là
A. Rb+. 	B. Na+. 	 C. Li+. 	 D. K+.
Câu 11: Nguyên tố X có cấu hình electron 1s22s22p63s1. Vị trí của X trong bảng tuần hoàncác nguyên tố hoá học : 
A. Chu kì 3, nhóm IA là nguyên tố phi kim	
B. Chu ki 4, nhóm IA là nguyên tố kim loại
C. Chu kì 3, nhóm IA là nguyên tố kim loại	
D. Chu kì 4, nhómVIIA,là nguyên tố phi kim
Câu 12: Ion M2+ có cấu hình electron ở lớp ngoài cùng là 3s23p6. Vị trí M trong bảng hệ thống tuần hoàn là
	A. ô 20, chu kì 4, nhóm IIA. 	B. ô 20, chu kì 4, nhóm IIB.
C. ô 18, chu kì 3, nhóm VIIIA. 	D. ô 18, chu kì 3, nhóm VIIIB.
Dạng 2. Tính chất vật lí của kim loại
Câu 1: Kim loại nào sau đây có độ cứng lớn nhất trong tất c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_phu_dao_hoc_sinh_hoc_yeu_mon_hoa_hoc_p.doc
  • docM2-Bia SKKN.doc
  • docMỤC LỤC.doc