SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới bản lĩnh, có năng lực và chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
Trong nhà trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách. Trong đó môn toán giữ vai trò quan trọng, chiếm lượng thời gian tương đối nhiều. Thực tế những năm gần đây, việc dạy học toán ở trường tiểu học đã có những bước cải tiến về nội dung, đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Việc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hoá việc học và khuyến khích học sinh phát hiện ra nội dung mới của bài học.
Chương trình sách giáo khoa có một số nội dung có sự thay đổi về cách đánh giá học sinh vì vậy cần phải đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, đặc biệt là cách kiểm tra đánh giá, điều kiện và thiết bị dạy học, quản lý và quá trình dạy học cũng cần có sự đổi mới. Ở sách giáo khoa Toán về nội dung, yêu cầu cơ bản về tri thức và kỹ năng được thay đổi theo quan điểm Toán học hiện đại, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện nay. [2]
Mặt khác, môn toán ở bậc tiểu học mỗi lớp có một vị trí, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Đặc biệt đối với lớp 3 qua các hoạt động dạy học Toán, giáo viên tiếp tục giúp học sinh phát triển các năng lực tư duy (so sánh, lựa chọn, phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá), phát triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận xét các số liệu thu thập được, diễn đạt gọn, rõ, đúng các thông tin, cẩn thận, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán.[3]
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA PHÒNG GD – ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ Người thực hiện: Lê Thị Phương Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ba Đình SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán THANH HÓA, NĂM 2017 MỤC LỤC Trang 1. Mở đầu..1 1.1. Lý do chọn đề tài ........1 1.2. Mục đích nghiên cứu2 1.3. Đối tượng nghiên cứu...2 1.4. Phương pháp nghiên cứu..2 1.5. Những điểm mới của SKKN2 2. Nội dung và giải pháp.....3 2.1. Cơ sở lý luận.3 2.1.1. Cơ sở toán học...3 2.1.2. Cơ sở tâm lí học.4 2.2. Thực trạng của dạy và học..4 2.3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả.......6 2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải toán..6 2.3.2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị (kiểu bài 1)8 2.3.3. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị (kiểu bài 2)11 2.3.4. Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài12 2.4. Hiệu quả và tác dụng...13 3. Kết luận, kiến nghị........14 3.1. Kết luận.......14 3.2. Kiến nghị.15 1 . MỞ ĐẦU 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới bản lĩnh, có năng lực và chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học. Trong nhà trường Tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách. Trong đó môn toán giữ vai trò quan trọng, chiếm lượng thời gian tương đối nhiều. Thực tế những năm gần đây, việc dạy học toán ở trường tiểu học đã có những bước cải tiến về nội dung, đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Việc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hoá việc học và khuyến khích học sinh phát hiện ra nội dung mới của bài học. Chương trình sách giáo khoa có một số nội dung có sự thay đổi về cách đánh giá học sinh vì vậy cần phải đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, đặc biệt là cách kiểm tra đánh giá, điều kiện và thiết bị dạy học, quản lý và quá trình dạy học cũng cần có sự đổi mới. Ở sách giáo khoa Toán về nội dung, yêu cầu cơ bản về tri thức và kỹ năng được thay đổi theo quan điểm Toán học hiện đại, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học trong giai đoạn hiện nay. [2] Mặt khác, môn toán ở bậc tiểu học mỗi lớp có một vị trí, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Đặc biệt đối với lớp 3 qua các hoạt động dạy học Toán, giáo viên tiếp tục giúp học sinh phát triển các năng lực tư duy (so sánh, lựa chọn, phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá), phát triển trí tưởng tượng không gian, tập nhận xét các số liệu thu thập được, diễn đạt gọn, rõ, đúng các thông tin, cẩn thận, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành toán.[3] Căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học, vào đặc thù của môn Toán, các nhà khoa học đã xây dựng cấu trúc nội dung môn Toán phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh. Ở lớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau. Hơn nữa môn toán lớp 3 góp phần củng cố mở rộng kỹ năng giải các bài toán có lời văn, nâng số lượng phép tính để giải bài toán trong đó có một số dạng toán như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về đơn vị, bài toán có nội dung hình học.... vì vậy các em phải nắm chắc các cơ sở ban đầu về giải toán. Đặc biệt sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng toán liên quan rút về đơn vị. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế hàng ngày. Với nội dung thực tế, gần gũi với cuộc sống của các em, các em biết trình bày bài giải đầy đủ gồm các câu trả lời chuẩn các phép tính và đáp số chính xác. Để tạo điều kiện cho việc dạy học giải toán nói chung, dạy học giải toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, làm thế nào để phát huy được tính sáng tạo của học sinh, giúp các em có kĩ năng phân biệt dạng toán, kiểu bài để giải chính xác nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Đó chính là lý do tôi chọn và đưa ra “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3 nói chung, dạy học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, tôi muốn đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc hơn cách giải dạng toán này, tránh không còn bị nhầm lẫn giữa hai dạng bài. Từ đó các em có kĩ năng tính toán chính xác lúc cần thiết trong cuộc sống, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. Để làm rõ được mục đích này tôi đã chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 3 trường Tiểu học Ba Đình thành phố Thanh Hóa trong hai năm học gần đây nhất, đó là năm học: 2014 - 2015 và năm học 2015 - 2016 và đã thực hiện nghiên cứu kiểm chứng trong từng giai đoạn của hai năm sau khi dạy dạng toán này. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khi tiÕn hµnh nghiªn cøu, t«i đã sö dông c¸c ph¬ng ph¸p sau: - Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu, lÝ luËn: - Ph¬ng ph¸p ®iÒu tra quan s¸t. - Ph¬ng ph¸p kiÓm tra, thèng kª kÕt qu¶: - Ph¬ng ph¸p tæng kÕt kinh nghiÖm: - Ph¬ng ph¸p thiÕt kÕ bµi d¹y: 1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SKKN Với một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho học sinh lớp 3 ®îc ¸p dông d¹y víi tÊt c¶ ®èi tîng häc sinh, thùc chÊt nã mang l¹i kÕt qu¶ rÊt cao. Bëi tõ ph¬ng ph¸p nµy gi¸o viªn sÏ gióp c¸c em n¾m ®îc c¸c bíc cÇn thùc hiÖn ®îc khi gi¶i to¸n, c¸c em biÕt ph©n biÖt c¸ch gi¶i c¸c kiÓu bµi nµy trong cïng mét d¹ng to¸n c¬ b¶n. §èi víi ph¬ng ph¸p nµy, tÊt c¶ c¸c ®èi tîng häc sinh sÏ n¾m ®îc quy tr×nh gi¶i 2 kiÓu bµi mét c¸ch dÔ dµng, dÔ nhí mµ kh«ng nhÇm lÉn, c¸c em biÕt ph©n biÖt ®îc sù gièng nhau vµ kh¸c nhau khi thùc hiÖn bµi gi¶i cña 2 kiÓu bµi nµy. §ã còng lµ mong muèn cña mçi chóng ta. 2. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: 2.1.1. Cơ sở toán học: Trong thực tế, mọi vấn đề toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tiễn. Phương pháp dạy học toán ở tiều học là sự vận dụng các phương pháp dạy học toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, điều kiện dạy học ở tiểu học[1]. Tuy nhiên, giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “tự khám phá, tự phát hiện, và tự giải quyết” bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với các kiến thức liên quan đã học với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để các em học giải tốt dạng toán rút về đơn vị nói riêng, học giải dạng toán hợp nói chung. Ở chương trình toán lớp 3, đối với giải toán có lời văn, đặc biệt là bài toán liên quan đến rút về đơn vị, mức độ đòi hỏi khó hơn, phức tạp hơn, học sinh dễ nhầm lẫn cách xác định sự khác biệt của 2 kiểu bài. Vậy nên, đòi hỏi học sinh phải tư duy, phải tìm hiểu để phân biệt, để lựa chọn câu lời giải, phép tính cho phù hợp, nắm được cách trình bày.Tức là học sinh tự phát hiện vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức và phát triển khả năng phán đoán, suy luận của mình dưới sự tổ chức điểu khiển của giáo viên. Đối với dạng toán này, trước khi hướng dẫn học sinh giải toán cần giúp học sinh nắm chắc được yêu cẩu của bài ra và các mối quan hệ giữa các yếu tố đã biết của bài toán. Biết phương pháp giải bài toán ở từng kiểu bài. Đọc - tóm tắt bài toán. Tìm phép tính giải bài toán và lời giải. Trình bày bài giải và đáp số. Kiểm tra bài giải và đáp số. 2.1.2. Cơ sở tâm lý học. Như chúng ta đã biết tâm lý học thực sự là một cơ sở của phương pháp dạy học môn tóan ở Tiểu học, tâm lý lứa tuổi được chia làm hai giai đoạn: + Giai đoạn đầu cấp: lớp 1, 2, 3. + Giai đoạn cuối cấp: lớp 4, 5. Khả năng nhận thức của học sinh tiểu học cũng đang được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng song song với quá trình phát triển tâm lý. Dạy học môn toán cũng là một quá trình quan trọng góp phần làm thay đổi nhân cách của học sinh nhằm đào tạo được thế hệ trẻ thông minh, năng động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của cuộc sống trong xã hội hiện đại. Vì vậy trong quá trình dạy học môn toán, giáo viên cần phải nắm được đặc điểm của quá trình nhận thức của học sinh ở từng giai đoạn thì mới đạt hiệu quả cao. 2.2. THỰC TRẠNG: Trong nhiều năm theo dõi học sinh học Toán nói chung và theo dõi học sinh giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị nói riêng, để giúp các em có một kĩ năng giải toán và phân loại dạng toán tốt, tạO cơ sở tốt cho các em học tốt dạng toán về đại lượng tỉ lệ thuận và đại lượng tỉ lệ nghịch sau này. Thực chất ở dạng bài này, đã phân loại cho các em thành hai kiểu bài theo chương trình học. Để các em không những có phương pháp tốt giải hai kiểu bài này mà còn giúp các em có kĩ năng nhận biết, so sánh, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau ở hai kiểu bài, từ đó các em tránh được nhầm lẫn ở các bước giải. Vậy nên, phải có phương pháp khéo léo phù hợp với quá trình nhận thức của các em, giúp các em nhẹ nhàng tiếp thu, không gò bó, nhớ được sâu sắc kĩ năng giải. Đặc biệt là hai năm gần đây, tôi trực tiếp theo dõi các em học sinh lớp 3 giải toán, tôi thấy các em có thói quen đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không kiểm tra lại kết quả, khi trả bài các em mới biết là mình sai. Đối với dạng toán này, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở bước 2 (kiểu bài 2) đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân (giống ở kiểu bài 1). Song tôi đã để ý, quan sát các em làm bài ở lớp mỗi khi dự giờ, thăm lớp các em đã có sự nhầm lẫn. Để nắm được thực trạng học sinh lớp 3 giải dạng toán này cụ thể như thế nào, tôi đã tiến hành ra hai bài toán, thuộc hai kiểu bài của dạng toán này như sau rồi cho các em làm bài trong thời gian là 20 phút để nắm được kết quả. * Bài toán 1: Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 30 kg gạo. Hỏi 5 bao gạo như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo? [1] * Bài toán 2: Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng? [1] Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau: - Có nhiều em làm đúng cả 2 bài. - Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại. Một số em có tính sai kết quả (do tính toán). Một số em nhầm lẫn tên đơn vị. Còn một vài em sai cả 2 bài (do không xác định được các dữ kiện và yêu cầu của bài toán). Kết quả cụ thể: Năm học Tổng số HS Điểm 1-4 Điểm 5-6 Điểm 7-8 Điểm 9-10 SL % SL % SL % SL % 2014-2015 38 3 7,9 8 21 9 23,7 18 47,4 2015-2016 39 1 2,6 7 17,9 11 28,2 20 51,3 * Nguyên nhân có kết quả như vậy là do phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa nhớ kĩ các bước giải dạng toán này. Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về 2 kiểu bài trong dạng toán này nên sự sai sót đó không tránh khỏi. Đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em quên mất phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra chưa được cao. Xuất phát từ tình hình thực tế đó, tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy dạng toán này. Mục đích chính giúp các em có phương pháp giải toán nói chung, phương pháp giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Làm cho các em biết chủ động thực hiện giải toán không giập theo khuôn mẫu, máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp từ bản thân. Để các em nắm vững được phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi lần lượt nghiên cứu phương pháp dạy học giải dạng toán này theo các kiểu bài với từng bước sau: Bước 1: Giúp các em nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán. Bước 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân. Bước 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng hai phép chia. Bước 4: Luyện tập, so sánh cách giải và củng cố kiến thức cho học sinh. Để giải quyết được nhiệm vụ trên, tôi càng bám sát vào các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học toán ở Tiểu học nói chung, của lớp 3 nói riêng sao cho phù hợp với nhận thức của học sinh tạo hứng thú khi học tập, tạo không khí sôi nổi trong lớp học để đạt chất lượng cao. 2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ: Muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải toán nói chung. 2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải toán: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Nên cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần, mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đề bài, những “ẩn số” là những cái chưa biết, cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán tốt. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: * Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. * Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu. * Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. * Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. * Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ. * Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven. * Cách 7: Tóm tắt bằng kẻ ô. Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào dễ hiểu nhất, rõ ràng nhất và thuận tiện nhất điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Cái này biết chưa? - Còn cái này thì sao? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lại, từ đó các em hiểu bài hơn, nắm kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 2.3.2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1): Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: Củng cố kiến thức liên quan đến bài học: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau: “Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong ?”[1] Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: Bài giải. Bảy can như vậy chứa được số lít mật ong là: 5 x 7 = 35 ( l) Đáp số: 35 l mật ong. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán. Giới thiệu bài toán liên quan đến rút về đơn vị: * Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán củng cố kiến thức, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học. * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đểu vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? [4] - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài (3 em). - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán (sử dụng phương pháp hỏi đáp): + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). + Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong). + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt, giáo viên ghi bảng: Tóm tắt: 7 can: 35 l 1 can: l ?. - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài vào giấy nháp. - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Đáp số: 5 l mật ong. - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). - Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần bằng nhau. - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: 5 bao: 300kg hoặc 3 túi: 15 kg 1 bao: kg? 1 túi: kg? * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 3 can có mấy lít mật ong? [4] - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài (3 lần). - Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán - Giáo viên ghi bảng (Phương pháp hỏi đáp). 7 can: 35 lít 3 can: lít? - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: (Phương pháp hỏi đáp) + Muốn tính được số lít mật ong có trong 3 can ta phải biết gì? (1can chứa được bao nhiêu lít mật ong?) + Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? (Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho 7). + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: l? + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 3 can khi đã biết 1 can. (Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhâ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_giai_bai_toan_l.doc