SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật ở trường THPT Tân Kỳ
Trong cuộc sống, bất kì bậc cha mẹ nào cũng luôn mong muốn sinh ra những đứa con bình thường, khỏe mạnh về cả thể chất lẫn trí tuệ. Tuy nhiên, cuộc đời đầy rẫy những bất ngờ, éo le, ngang trái, khiến không ít bậc sinh thành phải ngậm ngùi, đau đớn khi con mình khiếm khuyết. Nhưng không vì thế mà cha mẹ hay xã hội bỏ rơi các em, ngược lại, chúng ta đang ngày càng nỗ lực rút ngắn khoảng cách giữa trẻ em khuyết tật với cuộc sống, nhằm xóa bỏ sự tự ti, mặc cảm của HS khuyết tật về bản thân mình. Và giáo dục chính là con đường hữu hiệu nhất, là giải pháp tối ưu nhất cho nỗ lực này. Kể từ đầu những năm 1990, Nhà nước đã tiến hành xây dựng các chính sách nhằm bảo đảm trẻ khuyết tật được tiếp cận giáo dục. Cho đến nay, trẻ khuyết tật không chỉ được hưởng nhiều hơn những đãi ngộ về kinh tế mà còn có cơ hội hòa nhập cộng đồng qua những chính sách giáo dục nhân ái.
Tuy nhiên, tại các trường THPT, việc giáo dục HS khuyết tật còn nhiều vướng mắc, nhiều khó khăn, thậm chí còn bị xem nhẹ, chưa thực sự được giáo viên chủ nhiệm, giáo viên giảng dạy cũng như BGH và các cấp chính quyền quan tâm đúng mức. Thực tế cho thấy bản thân giáo viên THPT không được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng giáo dục trẻ khuyết tật, thiếu kinh nghiệm nên thường né tránh dạy học hay giáo dục lớp có HS hòa nhập. Chưa kể đến những áp lực của chương trình mới, của nhiều tiêu chí thi đua, nhiều hoạt động phong trào,... khiến giáo viên buộc phải chọn lựa ưu tiên chất lượng đại trà mà bỏ rơi hoặc quan tâm chưa thật sát sao với HS hòa nhập, khiến các em lạc lõng, bị tách biệt, cô lập. Bên cạnh đó, năng lực của cán bộ quản lý còn hạn chế trong điều hành, chỉ đạo, tổ chức thực hiện giáo dục hòa nhập; cơ sở vật chất còn thiếu thốn; chính sách ưu đãi cho giáo viên chưa có; nhận thức của các bậc phụ huynh chưa đúng đắn, còn phó mặc cho trường học;... cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn trong công tác giáo dục HS hòa nhập hiện nay.
Tại trường THPT Tân Kỳ hằng năm vẫn luôn đón nhận các HS hòa nhập. Dù số lượng HS hòa nhập không nhiều nhưng sự đa dạng của đối tượng vẫn khiến giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy gặp nhiều khó khăn, trở ngại. GV không chỉ quan tâm tới khả năng nhận thức, học tập mà còn phải chú ý quan sát, nhận biết cả những biến đổi về tâm lí, tình cảm, những mối quan hệ của HS khuyết tật để có được những phương pháp, cách thức xử lí phù hợp, tinh tế. Điều đó đòi hỏi GV phải có sự nhạy cảm, quan tâm chân thành, yêu thương và những giải pháp chuyên biệt, linh hoạt trong giáo dục HS hòa nhập. Trên thực tế, không nhiều GV ở trường THPT Tân Kỳ làm được điều này. Và giáo dục hòa nhập cộng đồng tại trường vẫn chỉ thực hiện trên lí thuyết nên không đạt được mục tiêu cũng như ý nghĩa thực sự của hoạt động này.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT TÂN KỲ SÁNG KIẾN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HÒA NHẬP CHO HỌC SINH KHUYẾT TẬT Ở TRƯỜNG THPT TÂN KỲ LĨNH VỰC: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Tên tác giả: Trần Lương Oanh Trần Thị Thanh Nga Lê Thị Tình Tổ bộ môn: Tổ Văn-Ngoại, Tổ Xã hội Số điện thoại: 0948286345 NGHỆ AN- 2023 1 MỤC LỤC Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Đóng góp mới của đề tài 2 3. Mục đích nghiên cứu 2 4. Đối tượng nghiên cứu 3 5. Phương pháp nghiên cứu 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HÒA NHẬP CHO HỌC 4 SINH KHUYẾT TẬT TẠI TRƯỜNG THPT TÂN KỲ 1.1. Cơ sở lý luận 4 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 4 1.1.1.1. Học sinh khuyết tật 4 1.1.1.2. Giáo dục hòa nhập cho HS khuyết tật 6 1.1.2. Vai trò của GVCN trong công tác giáo dục hòa nhập cho HS khuyết 8 tật 1.1.2.1. Vai trò của GVCN trong trường phổ thông 8 1.1.2.2. Vai trò của GVCN trong công tác giáo dục hòa nhập cho HS khuyết tật 9 1.2. Cơ sở thực tiễn 9 1.2.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài 9 1.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 10 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HÒA NHẬP CHO HỌC SINH 11 3 KHUYẾT TẬT Ở TRƯỜNG THPT TÂN KỲ 2.3.4.3. Xây dựng lớp học thân thiện thông qua việc hình thành và phát 39 triển các câu lạc bộ 2.3.4.4. Xây dựng lớp học thân thiện thông qua các hoạt động trải nghiệm 41 2.3.5. Phối hợp với các lực lượng khác trong việc giáo dục hòa nhập cho 45 học sinh khuyết tật 2.3.5.1. Phối hợp với giáo viên bộ môn 45 2.3.5.2. Phối hợp với Ban giám hiệu và các tổ chức khác trong nhà trường 46 2.3.5.3. Phối hợp với phụ huynh học sinh 47 2.3.5.4. Phối hợp với các tổ chức ngoài xã hội 48 2.4. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật ở 49 trường THPT Tân Kỳ” 2.4.1. Mục đích khảo sát 49 2.4.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 49 2.4.2.1. Nội dung khảo sát 49 2.4.2.2. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá 49 2.4.3. Đối tượng khảo sát 50 2.4.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp 50 2.4.4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất 50 2.4.4.2. Tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất 52 Chương III: Kết quả đạt được 54 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 57 1. Kết luận. 57 2. Một số kiến nghị 57 Tài liệu tham khảo Phụ lục 5 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong cuộc sống, bất kì bậc cha mẹ nào cũng luôn mong muốn sinh ra những đứa con bình thường, khỏe mạnh về cả thể chất lẫn trí tuệ. Tuy nhiên, cuộc đời đầy rẫy những bất ngờ, éo le, ngang trái, khiến không ít bậc sinh thành phải ngậm ngùi, đau đớn khi con mình khiếm khuyết. Nhưng không vì thế mà cha mẹ hay xã hội bỏ rơi các em, ngược lại, chúng ta đang ngày càng nỗ lực rút ngắn khoảng cách giữa trẻ em khuyết tật với cuộc sống, nhằm xóa bỏ sự tự ti, mặc cảm của HS khuyết tật về bản thân mình. Và giáo dục chính là con đường hữu hiệu nhất, là giải pháp tối ưu nhất cho nỗ lực này. Kể từ đầu những năm 1990, Nhà nước đã tiến hành xây dựng các chính sách nhằm bảo đảm trẻ khuyết tật được tiếp cận giáo dục. Cho đến nay, trẻ khuyết tật không chỉ được hưởng nhiều hơn những đãi ngộ về kinh tế mà còn có cơ hội hòa nhập cộng đồng qua những chính sách giáo dục nhân ái. Tuy nhiên, tại các trường THPT, việc giáo dục HS khuyết tật còn nhiều vướng mắc, nhiều khó khăn, thậm chí còn bị xem nhẹ, chưa thực sự được giáo viên chủ nhiệm, giáo viên giảng dạy cũng như BGH và các cấp chính quyền quan tâm đúng mức. Thực tế cho thấy bản thân giáo viên THPT không được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng giáo dục trẻ khuyết tật, thiếu kinh nghiệm nên thường né tránh dạy học hay giáo dục lớp có HS hòa nhập. Chưa kể đến những áp lực của chương trình mới, của nhiều tiêu chí thi đua, nhiều hoạt động phong trào,... khiến giáo viên buộc phải chọn lựa ưu tiên chất lượng đại trà mà bỏ rơi hoặc quan tâm chưa thật sát sao với HS hòa nhập, khiến các em lạc lõng, bị tách biệt, cô lập. Bên cạnh đó, năng lực của cán bộ quản lý còn hạn chế trong điều hành, chỉ đạo, tổ chức thực hiện giáo dục hòa nhập; cơ sở vật chất còn thiếu thốn; chính sách ưu đãi cho giáo viên chưa có; nhận thức của các bậc phụ huynh chưa đúng đắn, còn phó mặc cho trường học;... cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn trong công tác giáo dục HS hòa nhập hiện nay. Tại trường THPT Tân Kỳ hằng năm vẫn luôn đón nhận các HS hòa nhập. Dù số lượng HS hòa nhập không nhiều nhưng sự đa dạng của đối tượng vẫn khiến giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy gặp nhiều khó khăn, trở ngại. GV không chỉ quan tâm tới khả năng nhận thức, học tập mà còn phải chú ý quan sát, nhận biết cả những biến đổi về tâm lí, tình cảm, những mối quan hệ của HS khuyết tật để có được những phương pháp, cách thức xử lí phù hợp, tinh tế. Điều đó đòi hỏi GV phải có sự nhạy cảm, quan tâm chân thành, yêu thương và những giải pháp chuyên biệt, linh hoạt trong giáo dục HS hòa nhập. Trên thực tế, không nhiều GV ở trường THPT Tân Kỳ làm được điều này. Và giáo dục hòa nhập cộng đồng tại trường vẫn chỉ thực hiện trên lí thuyết nên không đạt được mục tiêu cũng như ý nghĩa thực sự của hoạt động này. 1 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Học sinh hòa nhập, học sinh bình thường của hai lớp C4K56 và lớp C11K56 trường THPT Tân Kỳ niên khóa 2020 – 2023. Cán bộ giáo viên và một số tổ chức trong trường THPT Tân Kỳ. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT Tân Kỳ. - Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2020 – 2021 đến năm học 2022 – 2023. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu lý luận: thu thập thông tin, tra cứu tài liệu. - Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, điều tra, khảo sát, phân tích, thống kê, đánh giá. - Xử lý, tổng hợp thông tin, khái quát, rút ra kết luận và đề ra giải pháp phù hợp. - Thể nghiệm đề tài vào thực tiễn và tiếp tục bổ sung hoàn thiện. 3 Đến năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm từ người khuyết tật thay cho tàn tật trong các bộ luật ban hành có liên quan. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, người khuyết tật được định nghĩa như sau: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Người khuyết tật có những đặc điểm cơ bản như: Người khuyết tật là nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất; Người khuyết tật có ở mọi nơi trên thế giới và các quốc gia phải có trách nhiệm bảo vệ người khuyết tật. Học sinh khuyết tật: Khái niệm HS khuyết tật được hiểu là những HS có những khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể, bị suy giảm về các chức năng của bản thân, bị hạn chế các khả năng hoạt động, khó khăn trong quá trình sinh hoạt, lao động, vui chơi, học tập, dẫn đến gặp khó khăn nhất định và không thể theo được chương trình giáo dục phổ thông nếu không được hỗ trợ đặc biệt về phương pháp giáo dục – dạy họcvà những trang thiết bị trợ giúp cần thiết. Ở Việt Nam hiện nay có 6 dạng khuyết tật như sau: Khuyết tật thính giác (HS khiếm thính): là những HS mất khả năng hoặc suy giảm khả năng phát triển về giao tiếp, khó nghe người đối diện nói chuyện. Khuyết tật vận động: Là những HS bị tổn thương các cơ quan vận động như chân, tay, xương, , khiến HS gặp khó khăn trong việc đi lại, cầm nắm, trong việc thực hiện các tư thế nằm, ngồi. Khuyết tật thị giác (HS khiếm thị): Là những HS bị suy giảm hoặc mất đi khả năng nhìn, HS có thể không nhìn rõ sự vật hoặc bị mù. Khuyết tật trí tuệ: Là những HS bị suy giảm khả năng nhận thức, không thể thích nghi được với những hoạt động của xã hội. Những HS này có chỉ số IQ quá thấp, nhận thức kém và khó có thể chữa trị được. Khuyết tật ngôn ngữ: Là những HS bị dị tật ở những cơ quan tiếp nhận ngôn ngữ thuộc vùng não, bị tổn thương bộ phận phát âm, khó có thể nói thành câu rõ ràng. Đa tật: Là những HS bị mắc nhiều hơn một khuyết tật. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS bị khuyết tật, trong đó cơ bản là các nguyên nhân sau: Trước khi sinh: Trong giai đoạn mang thai, khi mẹ bị cúm, ốm hoặc bị nhiễm độc, bị nhiễm các bệnh di truyền gây ra dị tật bẩm sinh cho thai nhi. Hoặc Trước 5 Hình thức dạy học chuyên biệt (special instruction) là hình thức dạy học cho cùng một đối tượng trẻ khuyết tật ở cùng một trình độ nhận thức và có thể ở cùng hoặc không cùng độ tuổi trong cùng một lớp học thậm chí là trường dành riêng cho từng đối tượng trẻ khuyết tật. Hình thức dạy học hội nhập (intergrated instructions) là hình thức dạy học dành riêng cho một số trẻ khuyết tật có khả năng vừa học theo hình thức chuyên biệt, vừa có khả năng học theo hình thức hoà nhập. Dạy học hội nhập được xuất hiện trong thời kỳ chuyển giao giữa hai hình thức từ dạy học chuyên biệt sang dạy học hoà nhập khi chưa có sự hiểu biết một cách đầy đủ về dạy học hoà nhập. Giai đoạn này được diễn ra mạnh mẽ từ những năm 1980 đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX và đến nay thì hình thức dạy học này vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Hình thức dạy học hoà nhập (inclusive instructions) là hình thức dạy học hiện phổ biết nhất trên thế giới và Việt Nam. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục hòa nhập cho HS khuyết tật ? “Giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật là phương thức giáo dục chung người khuyết tật với người không khuyết tật trong cơ sở giáo dục” (Thông tư 03/2018/TT-BGDĐT ngày 29/01/2018 quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật). Như vậy giáo dục hòa nhập có nghĩa là để thực hiện các chính sách giúp đỡ người khuyết tật sống, học tập và làm việc trong những điều kiện đặc thù, nơi họ có được cơ hội tốt nhất để trở nên độc lập tới mức mà họ có thể. Khuynh hướng hòa nhập được định nghĩa như việc hòa nhập HS khuyết tật và bình thường trong cùng một lớp học. Điều này mang lại cho HS khuyết tật cơ hội gia nhập cuộc sống bằng việc lĩnh hội những kinh nghiệm từ những bạn bè bình thường đồng trang lứa, đồng thời cũng đem đến cho HS bình thường có hội học tập và phát triển thông qua việc học hỏi kinh nghiệm từ những mặt mạnh và yếu của những bạn bè khuyết tật. Như vậy chúng ta có thể hiểu là “hòa nhập” không chỉ mang lại lợi ích cho HS khuyết tật mà còn cho HS bình thường. Sự hòa nhập mở ra cơ hội học tập cho cả hai đối tượng. Việc tham gia lớp hòa nhập như một thành viên được tiếp đón ân cần dạy cho HS khuyết tật có những nhu cầu đặc biệt, tính tự lực và giúp các em nắm vững những kỹ năng mới. Đối với một số HS, đó có thể là lần đầu tiên trong đời các em được mong đợi và khuyến khích làm những điều có thể làm cho bản thân. Làm việc và vui chơi với những HS khác khuyết khích HS khuyết tật phấn đấu để đạt được những thành tích lớn hơn. Do đó các em sẽ phát triển được ý thức về cái tôi khoẻ mạnh và tích cực. Nếu cứ sống và học tập mãi với bạn bè khuyết tật, HS khuyết tật sẽ không bao giờ khám phá ra những khả năng tiềm tàng mình có. Vì vậy, việc học tập trong một lớp hòa nhập với HS bình thường giúp cho HS khuyết 7
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_giao_duc_hoa_nhap.docx
- Trần Lương Oanh, Trần Thị Thanh Nga, Lê Thị Tình- THPT Tân Kỳ- Chủ nhiệm.pdf