SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 Trường Tiểu học Thiệu Khánh
Như chúng ta đã biết mục tiêu trường Tiểu học là giáo dục toàn diện cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi, có những hiểu biết cơ bản về: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Thực hiện chủ trương dạy đủ môn ở trường Tiểu học, ngành giáo dục đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học trong tất cả các môn học nói chung. Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.
Môn Tiếng Việt rất quan trọng đối với học sinh cấp bậc tiểu học nói chung, ở lớp tôi nói riêng. Nếu học tốt bộ môn này nó sẽ giúp các em học tốt hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt như: Nó sẽ giúp thêm cho môn Tập làm văn, về câu văn sẽ trau chuốt hơn, diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc, biết sàng lọc để đưa hình ảnh hay vào trong bài. Nó còn giúp cho bộ môn chính tả như viết đúng. Trong bộ môn kể chuyện, các em sẽ biết cách kể hay, hấp dẫn người nghe. Học tốt bộ môn này nó còn giúp cho việc học và nắm bắt kiến thức các môn học khác một cách dể dàng hơn.
Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và câu có một nhiệm vụ đó là cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói- viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là:
1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản về từ và câu.
2- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu đối với học sinh, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 Trường Tiểu học Thiệu Khánh”.
Mục lục Nội dung Trang Mục lục 1 1. Mở đầu 2 1.1. Lý do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. Nội dung . 3 2.1. Cơ sở lý luận 3 2.2. Thực trạng 3 2.2.1. Thuận lợi 3 2.2.2. Khó khăn 3 2.2.3. Nguyên nhân 4 2.3. Các giải pháp thực hiện 5 2.3.1.Giáo viên cần làm tốt công tác chuẩn bị 5 2.3.2. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học 8 2.3.3. Vận dụng linh hoạt và hiệu quả một số phương pháp và kỹ thuật dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4. 9 2.2.4. Sử dụng cách đánh giá thường xuyên học sinh một cách hiệu quả. 16 2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 16 3. Kết luận – kiến nghị 16 3.1. Kết luận 16 3.2. Kiến nghị 17 Tài liệu tham khảo 18 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Như chúng ta đã biết mục tiêu trường Tiểu học là giáo dục toàn diện cho trẻ từ 6 đến 11 tuổi, có những hiểu biết cơ bản về: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Thực hiện chủ trương dạy đủ môn ở trường Tiểu học, ngành giáo dục đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học trong tất cả các môn học nói chung. Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao. Môn Tiếng Việt rất quan trọng đối với học sinh cấp bậc tiểu học nói chung, ở lớp tôi nói riêng. Nếu học tốt bộ môn này nó sẽ giúp các em học tốt hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt như: Nó sẽ giúp thêm cho môn Tập làm văn, về câu văn sẽ trau chuốt hơn, diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc, biết sàng lọc để đưa hình ảnh hay vào trong bài. Nó còn giúp cho bộ môn chính tả như viết đúng. Trong bộ môn kể chuyện, các em sẽ biết cách kể hay, hấp dẫn người nghe. Học tốt bộ môn này nó còn giúp cho việc học và nắm bắt kiến thức các môn học khác một cách dể dàng hơn. Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và câu có một nhiệm vụ đó là cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói- viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là: 1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản về từ và câu. 2- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. 3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu đối với học sinh, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 Trường Tiểu học Thiệu Khánh”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm ra một số phương pháp dạy học, giải pháp thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất. 1.3. Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu về nội dung, kiến thức chương trình, phương pháp dạy học luyện từ và câu lớp 4 để nâng cao chất lượng phân môn luyện từ và câu đối với học sinh lớp 4B, trường Tiểu học Thiệu Khánh. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thảo luận. - Phương pháp đặt vấn đề. - Phương pháp thực hành. - Phương pháp trò chơi. 2. nội dung sáng kiến kinh nghiệm: 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là: Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Trong chương trình “ Luyện từ và câu lớp 4” không những cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ, giải nghĩa từ, kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu mà còn được luyện tập, thực hành sử dụng từ ngữ cung cấp, phát triển kĩ năng sử dụng từ cho học sinh . Các em thích diễn đạt, thích vận dụng từ ngữ hay để nói, viết Tuy nhiên tư duy các em phát triển chưa hoàn thiện, các em chưa hiểu hết nghĩa của từ, chưa nắm chắc kiến thức tiếng Việt. Vì vậy, việc giúp các em hình thành và phát triển kỹ năng tiếng Việt là rất quan trọng. Các em nắm chắc kiến thức từ ngữ và cấu trúc câu để học tốt môn tiếng Việt và các môn học khác, là cơ sở, nền tảng cho học tập các bậc học trên. Mặt khác, thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Phân môn Luyện từ và câu ®ãng vai trß rÊt lín trong viÖc thùc hiÖn c¸c môc tiªu giáo dục ®ã. 2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 2.2.1. Thuận lợi Nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất cho công tác giảng dạy, thường xuyên tổ chức các chuyên đề, các buổi sinh hoạt chuyên môn trao đổi về kinh nghiệm, phương pháp, hình thức dạy học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên trong trường đều có trình độ chuyên môn cao, đạt chuẩn và trên chuẩn. Giáo viên là người có tay nghề, có đầy đủ SGK, sách hướng dẫn, tài liệu. Đội ngũ giáo viên luôn nhiệt tình, yêu nghề, có năng lực sư phạm. Điều kiện cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo. Lớp học được trang bị tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất như: bàn ghế hợp qui chuẩn, bảng từ, thiết bị chiếu sáng đầy đủ. Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể đã được giảm bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - Ngữ pháp của lớp 4 trước đây, phân môn đã chỉ rõ 2 dạng bài đó là: Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng. - Học sinh có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa - Hầu hết các em học sinh đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập, chú ý nghe giảng, ý thức học tập tốt. 2.2.2. Khó khăn - Phân môn Luyện từ và câu là phân môn khó dạy nhất trong các phân môn của môn Tiếng việt. - Trình độ của học sinh không đồng đều, vốn từ của học sinh còn hạn chế. - Kiến thức về từ vựng, ngữ nghĩa học của một số giáo viên ít nhiều còn hạn chế nên bộc lộ những sơ xuất khi dạy phân môn luyện từ và câu. - Giáo viên đôi lúc lựa chọn hình thức tổ chức dạy học chưa phù hợp vói dạng bài, việc phân chia thời lượng lên lớp ở môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô- trò có lúc thiếu nhịp nhàng, nặng tính hình thức. - Do điều kiện kinh tế một số phụ huynh phải đi làm ăn xa cả năm để con ở nhà với ông bà già yếu không kèm cặp được cho các cháu học hành. Ông bà chỉ còn một cách duy nhất là “Trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô giáo”. Đây là lý do không nhỏ làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của phân môn Luyện từ và câu. - Có một số học sinh chưa thật sự chú trọng khi học môn Tiếng Việt nói chung, môn Luyện từ và câu nói riêng. Trong tâm tưởng của các em và một số phụ huynh học sinh đều hướng cho con em học môn Toán nhiều hơn mà chưa thật sự chú trọng môn Tiếng Việt, coi nhẹ môn Tiếng Việt, cho rằng, các em chỉ cần đọc được, viết được là được. Chính vì vậy nhiều học sinh không hứng thú với môn học, thờ ơ với môn học và lệ thuộc vào các loại sách tham khảo, sách bồi dưỡng, sách bài tập có sẵn đáp án, không chịu khó học, suy nghĩ hay chú tâm vào môn học, nhất là đối với phân môn Luyện từ và câu. Do đó các em chưa thật sự hứng thứ với môn học này. Tôi đã đưa ra bài khảo sát đầu năm như sau: Bài 1: Dùng dấu gạch chéo tách từ láy, từ ghép trong đoạn văn sau: Mưa mùa xuân xôn xao, phơi phớiNhững hạt mưa bé nhỏ, mềm mại, rơi mà như nhảy nhót. Bài 2: Xếp các từ có tiếng nhân ( nhân dân, nhân hậu, nhân ái, công nhân, nhân loại, nhân đức, nhân từ, nhân tài) thành hai nhóm: Từ có tiếng nhân có nghĩa là người: Từ có tiếng nhân có nghĩa là lòng thương người : Bài 3: Em hãy đặt một câu với từ ngay thẳng. Theo kết quả khảo sát lần thứ nhất, vào tuần 4 (cuối tháng 9) kết quả tôi thu được như sau : KQ TSHS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL% SL TL% SL TL% 30 3 10% 16 53,3% 11 36,7% Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy rằng trong bài làm của học sinh chưa hoàn thành còn mắc nhiều lỗi, cách phân biệt từ ghép, từ láy còn chưa rõ ràng, nhầm lẫn, chưa đúng theo yêu cầu đề bài. Khi xác định cấu tạo từ học sinh còn gặp khó khăn trong những trường hợp mà nghĩa của từ hoặc dấu hiệu hình thức không rõ ràng. Các em chưa nắm chắc nghĩa của từ, dùng từ đặt câu chưa phù hợp. Chất lượng học sinh chưa hoàn thành còn nhiều, số học sinh Hoàn thành tốt chưa cao. 2.2.3. Nguyên nhân : - Vì cho rằng phân môn Luyện từ và câu là môn học khô khan, không gây được hứng thú với học sinh. Bên cạnh đó sự tập trung của học sinh lại chưa bền vững, khả năng tập trung chưa cao, hay nóng vội, khả năng ngôn ngữ còn thấp cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng môn học. - Mặc dù học sinh có đủ sách vở học tập nhưng nhiều em không chịu học mà phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn. - Cha mẹ học sinh không kịp thời khuyến khích, động viên con em học tập. Thời gian dành cho việc học ở nhà còn ít. Đa số phụ huynh học sinh lại có nguyện vọng cho con em học thiên về môn Toán nhiều hơn. - Bên cạnh đó còn một bộ phận học sinh do bị hổng kiến thức từ lớp dưới, do khả năng tiếp thu bài hạn chế. Từ những tồn tại nêu trên tôi đã trăn trở, luôn suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân dẫn đến chất lượng môn Luyện từ và câu. Mặc dù trong giảng dạy phân môn này có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Song khó khăn nào cũng có hướng giải quyết, thuận lợi nào đều có thể phát huy được. Được sự hỗ trợ và giúp đỡ của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường, thông qua cuộc họp Cha mẹ học sinh đầu năm học tôi mạnh dạn đề ra một số biện pháp khắc phục, cách dạy phù hợp với nhận thức của học sinh nhằm giúp học sinh có hứng thú với môn học và nắm bắt bài một cách tốt hơn, nâng cao chất lượng, hiệu quả của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4B trường Tiểu học Thiệu Khánh, năm học 2017 - 2018. 2.3. Các giải pháp thực hiện: Qua thực tế giảng dạy bản thân rút ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4 như sau:: 2.3.1Giáo viên cần làm tốt công tác chuẩn bị * Nắm vững qui trình dạy luyện từ và câu ở lớp 4. Để dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4 đạt hiệu quả cao, giáo viên cần nắm vững qui trình dạy hai dạng bài lí thuyết và bài thực hành. Cách dạy theo 2 dạng bài lí thuyết và bài thực hành như sau: Quy trình dạy bài lí thuyết Quy trình dạy bài thực hành 1. Củng cố kiến thức: 2. Dạy bài mới: a. Giới thiệu bài b. Hình thành khái niệm + Phân tích ngữ liệu + Ghi nhớ kiến thức - Hướng dẫn luyện tập - Củng cố, dặn dò: Chốt lại những kiến thức, kỹ năng cần nắm vững. - Nhận xét tiết học. 1. Củng cố kiến thức: 2. Dạy bài mới: a. Giới thiệu bài b. Hướng dẫn thực hành theo nội dung, yêu cầu của bài - Củng cố, dặn dò: Khắc sâu nội dung bài. * Nghiên cứu kỹ và xác định nội dung trọng tâm của bài theo chuẩn kiến thức, kỹ năng Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và những mục tiêu cần đạt của yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học mà xây dựng kế hoạch bài học cho phù hợp. Song, cho dù thế nào cũng cần có đầy đủ các hoạt động lớp và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú, phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy và chủ điểm của bài đó. * Lập kế hoạch bài học : Để có kết quả cao trong tiết dạy Luyện từ và câu giáo viên cần lập kế hoạch bài học chu đáo, cẩn thận chuẩn bị về mọi mặt cho tiết dạy. Vì vậy việc lập kế hoạch bài học của giáo viên phải lôgíc, tích hợp đầy đủ các nội dung dạy học, phải có đầy đủ mục đích, yêu cầu, cũng như qui trình một bài dạy sao cho phù hợp. Khi lập kế hoạch bài học, giáo viên phải đặt ra những tình huống trong giờ học ngoài dự kiến của mình để kịp thời xử lí, đồng thời tạo cho giờ học sinh động, hấp dẫn. Việc làm này phải diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học. Phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học. Làm cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học để tạo động cơ học tập. Cho nên ở mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng đến việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu chính là dạy cho các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra một số thủ pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các em, đó chính là các trò thi đố, các trò chơi để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học, giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán. Khi lập kế hoạch bài học, giáo viên cần lưu ý: - Lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học phù hợp: Giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây hứng thú cho học sinh sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt hơn, nắm vững nội dung của bài học. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải có dự kiến về các câu trả lời của học sinh và các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong mỗi hoạt động từ đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời. Việc tổ chức các hoạt động học tập có tác dụng rất lớn đến việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, giúp học sinh biết quý trọng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ đó hình thành cho các em nhân cách sống và kĩ năng sống. Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy. Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trò chơi, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu. VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ Ước mơ (tuần 9) Trang 87 Bài tập 2: Tổ chức trò chơi:” Truyền điện” Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ” - HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước ao, - HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ mộng, ... - HS 3 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước mong, ... - HS 4 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ ước, ... BT 3 : Nêu yêu cầu viết thêm những từ : đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho nhỏ, kì quặc, dại dột, chính đáng... vào sau từ ước mơ thể hiện sự đánh giá : + HS thảo luận nhóm 4. - Đánh giá cao: ước mơ đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ lớn, ước mơ đẹp đẽ. - Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ. - Đánh giá thấp: ước mơ kì quặc, ước mơ dại dột, ước mơ viển vông, ước mơ tầm thường. BT 4: Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên. Bài này cho học sinh làm việc cá nhân. VD: + Ước mơ được đánh giá cao: Đó là những ước mơ vươn lên làm những việc có ích cho mọi người như: - Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ/ kĩ sư - Ước mơ chinh phục vũ trụ + Ước mơ được đánh giá không cao: Đó là những ước mơ giản dị, thiết thực, có thể thực hiện được không cần nỗ lực lớn: - Ước mơ có truyện đọc/ có xe đạp/ có một đồ chơi + Ước mơ bị đánh giá thấp: Đó là những ước mơ phi lí, không thể thực hiện được hoặc là những ước mơ ích kỉ, có lợi cho bản thân nhưng gây hại cho người khác: - Ước mơ được xem ti vi suốt ngày/ ước không phải học mà vẫn được cô giáo nhận xét tốt. - Ước mơ thể hiện lòng tham không đáy của vợ ông lão đánh cá. - Ước mơ tầm thường – ước được ăn dồi chó – Ba điều ước.v.v - Chuẩn bị tài liệu giảng dạy, đồ dùng học tập Vì đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học là tư duy cụ thể, dựa vào những trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể nên giáo viên cần tận dụng và sử dụng một cách triệt để các đồ dùng và trang thiết bị dạy học. Với đối tượng học sinh tiếp thu bài chậm, khả năng tư duy trừu tượng thấp do đó cần tăng cường, hỗ trợ các em về khả năng tư duy bằng hình ảnh, bằng âm thanh bằng trực quan sinh động sẽ giúp các em tiếp thu bài tốt hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt, để giờ học gây hứng thú học tập cho học sinh giáo viên nên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học để giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị thêm đồ dùng, dụng cụ học tập. Các em có thể tự tìm tòi, tự làm lấy để trở thành đồ dùng học tập hữu ích. Quá trình tự chuẩn bị này sẽ giúp học sinh chủ động , hứng thú hơn với môn học, tiếp thu bài tốt hơn . Ví dụ: Khi dạy bài: “ Danh từ chung và danh từ riêng” GV nên sử dụng công nghệ thông tin đưa một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, một số địa danh ở địa phương, trong tỉnh, trong nước, một số danh lam thắng cảnh, địa danh nổi tiếng trên thế giới lên màn hình máy chiếu cho học sinh quan sát. Ngoài ra, giáo viên có thể giao việc cho học sinh về nhà sưu tầm tranh ảnh về một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, một số địa danh ở địa phương, trong tỉnh, trong nước, một số danh lam thắng cảnh, địa danh nổi tiếng trên thế giới cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn gây hứng thú học tập cho học sinh. - Phân chia đối tượng học sinh theo mức độ. Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh, vì vậy có thể phân chia học sinh ra nhiều mức độ để có phương pháp dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể. Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho tất cả các em đều được nói, đều được làm việc phù hợp với khả năng tư duy. - Phân bố thời gian học tập cho từng hoạt động dạy học hợp lý. Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4, việc phân bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng của sự thành công. Người giáo viên phải biết phối kết hợp nhịp nhàng các hoạt động dạy học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó phù hợp trong mỗi tiết học, mỗi bài học cụ thể. Tránh tình trạng hết tiết học mà không hết bài hoặc ngược lại tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này cũng giúp ích cho học sinh trong việc tự phân bố thời gian học ở nhà hợp lí, mang lại hiệu quả 2.3.2. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học * Thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực và tốt đẹp : Giữa cô và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo hứng thú cho cả cô và trò. Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục tính mục đích kỉ luật, ý thức về trách nhiệm v.vcho học sinh, với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy trong nhà trường phải là người tổ chức cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu sao cho Mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Mỗi học sinh sẽ luôn mong muốn phải là người được hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Bởi vậy, giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh muốn việc học diễn ra như thế nào? cái gì làm các em thích? cái gì làm các em không thích? để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong đợi. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần chú trọng vào mặt thành công của trẻ, nhìn nhận các em theo cách nhìn: em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, hoàn thành tốt, cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan, hoàn thành, cố gắng ít hơn mà thôi. Bên cạnh đó giáo viên là người luôn nâng đỡ, khích lệ, thông cảm chú trọng vào mặt thành công của các em, đề cao tính sáng tạo của các em. Đôi lúc cô giáo cũng cần tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, tôn trọng những sáng tạo của các em dù là rất nhỏ, giúp các em tự phát hiện ra chân lí. Sau cùng là cách kiểm tra đánh giá của cô giáo đối với các em. Việc đánh giá trong dạy học đòi hỏi phải nghiêm khắc nhưng không có nghĩa là khắt khe và quá chặt chẽ. Khi nhận xét bài làm của các em giáo viên nên có những lời động viên khéo léo để khích lệ các em cố gắng hơn ở những bài làm tiếp theo.Giáo viên phải là người luôn thắp sáng ước mơ cho các em. Có thể đặt ra câu hỏi ‘‘Cần đặt ra yêu cầu gì với các em để đánh giá hợp lí nhằm khuyến khích, học sinh học tốt hơn?’’. Thành quả mà các em thấy được qua sự học tập của mình được thể hiện bằng những lời nhận xét, đánh giá tốt, gần gũi, thân tình của cô giáo . Để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_phan_mon_luyen.doc