SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 1

SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 1

Kể chuyện là một phân môn của Tiếng Việt góp phần thực hiện mục tiêu dạy học ,là hình thành và phát triển bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết để các em tiếp tục học lên bậc học cao hơn và cung cấp cho các em hiểu biết sơ giản về hệ thống Tiếng việt, sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp. Kể chuyện còn giúp học sinh củng cố, mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy lôgic cho học sinh, nâng cao hiểu biết của các em về đời sống và phát triển kĩ năng giao tiếp, đây là một kĩ năng rất quan trọng và đang được quan tâm. Đồng thời còn cung cấp cho các em những hiểu biết về xã hội, con người, tự nhiên và văn hóa Việt Nam và nước ngoài.

 Kể chuyện giúp cho vốn từ ngữ của các em được trau rồi, vận dụng vốn từ ngữ của bản thân kết hợp với vốn từ ngữ đã học để dùng từ chính xác, rõ ràng; diễn đạt mạch lạc nội dung cần kể, được luyện phát âm tròn vành rõ chữ để thu hút người nghe, hỗ trợ nhiều cho phân môn tập đọc và nói chuyện với mọi người trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Kể chuyện không chỉ mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em mà còn chắp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Cùng với ý tưởng, óc tưởng tượng sẽ là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi các em bước vào cuộc sống. Sống với các nhân vật trong chuyện, tư duy hình tượng của các em được mở rộng và có điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mĩ. Qua từng câu chuyện, các em biết cảm nhận được cái hay, cái đep, phân biệt được tốt, xấu. Do đó, kể chuyện là miếng đất màu mỡ để phát triển tư duy hình tượng của các em.

Nó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích. nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn, để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài.

 

doc 21 trang thuychi01 13262
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU :..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu :....................................................................................2
1.3. Đội tượng nghiên cứu:....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:...............................................................................2 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.................................................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................3
2.2.Thực trạng của vấn đề:....................................................................................4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh:.. .... .....5
2.3.1 Nắm bắt lại chương trình phân môn kể chuyện ...................................... ..5  
2.3.2 Tăng cường khâu chuẩn bị của giáo viên và học sinh ......... ................... 5
2.3.3.Thực hiện nghiêm túc đầy đủ quy trình dạy từng bài trong giờ kể chuyện 8
2.3.4 Tích cực đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin tron tiết dạy .........................................................................................................16
 2.4. Hiệu quả của sáng kiến:...............................................................................18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: ............................................................................ 19
3.1 Kết luận .......................................................................................................19
3.2. Kiến nghị ...................................................................................................19
1. MỞ ĐẦU:
1.1.Lý do chọn đề tài :
Kể chuyện là một phân môn của Tiếng Việt góp phần thực hiện mục tiêu dạy học ,là hình thành và phát triển bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết để các em tiếp tục học lên bậc học cao hơn và cung cấp cho các em hiểu biết sơ giản về hệ thống Tiếng việt, sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp. Kể chuyện còn giúp học sinh củng cố, mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy lôgic cho học sinh, nâng cao hiểu biết của các em về đời sống và phát triển kĩ năng giao tiếp, đây là một kĩ năng rất quan trọng và đang được quan tâm. Đồng thời còn cung cấp cho các em những hiểu biết về xã hội, con người, tự nhiên và văn hóa Việt Nam và nước ngoài. 
	 Kể chuyện giúp cho vốn từ ngữ của các em được trau rồi, vận dụng vốn từ ngữ của bản thân kết hợp với vốn từ ngữ đã học để dùng từ chính xác, rõ ràng; diễn đạt mạch lạc nội dung cần kể, được luyện phát âm tròn vành rõ chữ để thu hút người nghe, hỗ trợ nhiều cho phân môn tập đọc và nói chuyện với mọi người trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Kể chuyện không chỉ mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em mà còn chắp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Cùng với ý tưởng, óc tưởng tượng sẽ là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi các em bước vào cuộc sống. Sống với các nhân vật trong chuyện, tư duy hình tượng của các em được mở rộng và có điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mĩ. Qua từng câu chuyện, các em biết cảm nhận được cái hay, cái đep, phân biệt được tốt, xấu. Do đó, kể chuyện là miếng đất màu mỡ để phát triển tư duy hình tượng của các em. 
Nó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích... nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn, để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài.
	Những câu chuyện kể lớp 1 có nội dung giản dị, dễ hiểu và có ý nghĩa, bài học sâu sắc vì vậy giáo viên biết liên hệ, giáo dục đạo đức cho các em học tập những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, hướng dẫn các em những kĩ năng sống để các em học tập noi theo trở thành con ngoan trò giỏi. Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng rất thích được nghe chuyện và đặc biệt là được nghe cô giáo kể chuyện. Nhưng các em chưa tự tin khi kể chuyện, chưa biết cách kể câu chuyện vì các em rất sợ kể lại câu chuyện trước lớp cho cô và các bạn nghe... Làm thế nào để các em có thể kể được câu chuyện hay và hấp dẫn nên tôi đã tìm tòi và đưa ra “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp Một”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn kể chuyện cho học sinh lớp 1, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh và tăng cường hoạt động cá nhân.- Góp phần gây hứng thú học tập môn kể chuyện - một môn học được coi là khó diễn đạt và thiếu tự tin trong khi học
Giúp học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ hỗ trợ đắc lực cho các môn học nói chung và phân môn kể chuyện nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Các kỹ năng kể chuyện đối với yêu cầu cần đạt của học sinh lớp 1 theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
 Nghiên cứu kỹ các giải pháp rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp1 ở trường Tiểu học Minh Lộc 2, huyện Hậu Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp:
 - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
 - Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
 - Phương pháp thực nghiệm. 
 - Phương pháp phân tích tổng hợp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN:
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến 
	Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Mặc dù đã có những thông tin đại chúng hiện đại như ti vi, đài phát thanh,...nhưng con người vẫn thích nghe nói chuyện bằng miệng. Khi xã hội càng hiện đại thì kể chuyện không chỉ dừng lại ở mức độ thông tin nữa mà nó mang chức năng giải trí hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Những truyện kể, truyện dân gian là một trong những nhận thức thế giới của các em, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em.
Truyện cổ tích gắn liền với cái đẹp góp phần phát triển các cảm xúc thẩm mĩ mà thiếu chúng không thể có tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất hạnh, đau đớn, khổ ải của con người. Nhờ có truyện cổ tích, trẻ nhận thức được thế giới không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng trái tim. Và trẻ em không phải chỉ có nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh, tỏ thái độ của mình với những điều thiện và ác. Truyện cổ tích cung cấp cho trẻ những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn đầu tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ có truyện cổ tích. Truyện cổ tích là một nguồn phong phú và không gì thay thế được để giáo dục tình yêu Tổ quốc.
Phân môn kể chuyện phát triển các kĩ năng Tiếng Việt cho các học sinh. Trước hết phát triển kĩ năng nói trước đám đông dưới dạng độc thoại thành đoạn bài theo phong cách nghệ thuật; giúp học sinh tiếp xúc với tác phẩm văn học có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ truyện cổ tích đến truyện hiện đại. Nhờ đó, vốn văn học của học sinh được tích lũy dần. Đồng thời, các kĩ năng nghe, đọc, ghi chép cũng được phát triển trong quá trình kể lại truyện đã nghe, đã đọc. Cùng với sự rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, tư duy cũng được phát triển. Đặc biệt sống trong thế giới các nhân vật, thâm nhập vào các tình tiết của truyện, tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ kể chuyện tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mĩ ở học sinh cũng được phát triển. Kể chuyện còn góp phần tích lũy vốn sống, vốn văn học cho các em, là hành trang quý sẽ theo các em trong suốt cuộc đời mình. Qua từng câu chuyện, thế giới muôn sắc màu mở rộng trước các em. Truyện kể còn làm tăng vốn hiểu biết về thế giới và xã hội loài người xưa đến nay, chắp cánh cho trí tưởng tượng và mơ ước của học sinh, thúc đẩy sự sáng tạo của các em.	 	
Truyện kể lớp 1 đơn giản, dễ hiểu, có giá trị thẩm mĩ và tác dụng giáo dục rõ rệt cho các em học sinh. Các em được nghe và kể lại được câu chuyện, tập phát biểu cảm nghĩ của mình đối với các nhân vật (Yêu nhân vật nào? Tại sao?), bài học rút ra từ câu chuyện. Vậy làm thế nào để đạt được điều đó, là cán bộ quản lý trực tiếp chỉ đạo chuyên môn của trường, tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở mỗi khi giờ giáo viên tôi bắt gặp có nhiều bất cập trong giảng dạy phân môn kể chuyện do đó tôi mới chọn nghiên cứu đề tài này.
 2.2.Thực trạng
*. Đối với giáo viên:
 Khi dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy: Giáo viên chưa chuẩn bị các đồ dùng dạy học thường xuyên, để minh hoạ cho câu chuyện thêm sinh động. Giáo viên còn phải gọi các em học sinh hay rụt rè, ngại nói và diễn đạt kém lên để kể chuyện. Chưa có tranh phóng to minh họa cho các bài kể chuyện, giáo viên sử dụng tranh thì cũng chỉ dùng tranh phô tô ở trong sách giáo khoa cho nên không có tính khoa học và thẩm mỹ.
 Giáo viên thường coi trọng những môn học khác như: Học vần (Tập đọc), Toán còn phân môn Kể chuyện có phần bị giảm nhẹ. Khi giới thiệu vào đề câu chuyện bằng giọng tẻ nhạt, thiếu hình ảnh, thái độ hờ hững. Hoặc khi kể cho rằng cần phải trung thành với văn bản truyện, không được sai lệch một câu, một từ. Vì vậy, lời kể của giáo viên chưa hấp dẫn, lôi cuốn, nên làm giảm sự chú ý của các em. Việc vận dụng phương pháp dạy học chưa linh hoạt, sáng tạo nên lớp học còn trầm, Giáo viên còn chưa rèn cho học sinh nhiều về kĩ năng kể chuyện nên học sinh chưa biết cách kể chuyện hay, hấp dẫn. Hoặc do giáo viên chưa chuẩn bị tốt phần kể chuyện ở nhà nên khi kể giáo viên mắt không rời khỏi quyển sách hay còn tuỳ tiện cắt xén nội dung tiết kể chuyện.
 Chuẩn bị đồ dùng của giáo viên còn hạn chế chưa giành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm tòi để làm đồ dùng, ít quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng trực quan đã có sẵn mà mới dừng lại ở tranh vẽ sách giáo khoa. Khi kể chưa nghiên cứu khai thác hết nội dung trong tranh làm cho câu chuyện kể chưa lôi cuốn, hấp dẫn học sinh.
 *Đối với học sinh:
 Các em học sinh rất yêu thích môn học này, luôn háo hức, chờ đợi đến tiết kể chuyện và say sưa nghe cô kể chuyện. Nhưng trong quá trình dạy kể chuyện tôi thấy còn có một số tồn tại như: Thời gian đầu nhiều học sinh chưa biết cách kể lại câu chuyện vì đa số các em mới học (ở giai đoạn đầu còn đánh vần) nên chưa tự mình đọc được văn bản chuyện hoặc khi nghe cô giáo kể chuyện các em không nhớ hết được cốt truyện dẫn đến khi kể còn quên cốt truyện, một số chi tiết chính và kể không đúng trình tự câu chuyện. Một số em khác thuộc truyện nhưng khi kể lại câu chuyện như đọc, hoặc kể rất lúng túng, nét mặt căng thẳng chưa mạnh dạn và tự tin đứng trước lớp, trước đám đông. Các em thích nghe cô kể, thấy được câu chuyện hay, hấp dẫn nhưng chưa hiểu rõ được nội dung câu chuyện hoặc giáo dục các em điều gì, học tập được điều gì qua câu chuyện. Vì vậy mà khi kể các em chưa thể hiện được nội dung câu chuyện, chưa biết biến câu chuyện thành của riêng mình dẫn đến giờ học nhạt nhẽo, chưa đạt được mục tiêu giờ kể chuyện. 
* Kết quả thực trạng:
 Ngay từ đầu năm (năm học: 2018 – 2019), sau quá trình tìm hiểu thực tế tôi tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh lớp 1A trường Tiểu học Minh Lộc 2, tôi nhận thấy:
 Sĩ số
Học sinh biết kể chuyện hay và nêu ý nghĩa câu chuyện
Học sinh biết kể chuyện và nêu ý nghĩa câu chuyện.
Học sinh biết kể chuyện
Học sinh kể chuyện chưa đạt yêu cầu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
30
1
3.3
3
9.9
11
36.3
15
50.0
	 2.3 .Các giải pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh.
 2.3.1.Nắm bắt lại chương trình phân môn Kể chuyện.	
	Phân môn kể chuyện ở lớp 1 được chia làm hai dạng ở hai giai đoạn khác nhau:
*Giai đoạn học vần: Kể chuyện ở trong các bài Ôn tập của tiết Học vần trong phần Luyện nói (Từ tuần 1 đến tuần 24). Ở giai đoạn học vần, kể chuyện dạy vào các bài Ôn tập sau phần luyện đọc, luyện viết (tiết 2) là phần kể chuyện theo tranh nhằm giúp cho nội dung học tập thêm phong phú, sinh động và hấp dẫn, tên truyện gắn với những âm, vần học sinh đã học. Sau khi nghe giáo viên kể mẫu học sinh chủ yếu nhìn tranh minh họa trong sách giáo khoa để kể lại câu chuyện có nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Thời gian giành cho kể chuyện từ 10 đến 15 phút. 
 *Giai đoạn Luyện tập thực hành: Kể chuyện trong phần Luyện tập tổng hợp, cuối mỗi tuần học(Từ tuần 25 đến tuần 34).Ở giai đoạn này, phân môn kể chuyện được tách riêng thành một tiết học. Nội dung câu chuyện dài hơn, chi tiết hơn, thời gian thực hành kể chuyện cũng dài hơn nhằm phát triển khả năng sáng tạo của học sinh. Vì giai đoạn này học sinh đã đọc được văn bản ngắn. Mỗi câu chuyện được gắn với từng chủ đề trong tuần và cứ mỗi tuần một chủ đề (Nhà trường - Gia đình - Thiên nhiên, Đất nước) và sau hai tuần lại lặp lại chủ đề đó.
2.3.2. Tăng cường khâu chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
2.3.2.1. Chuẩn bị của giáo viên:
 a.Đọc truyện, tìm hiểu thâm nhập truyện.
	Để có thể kể được truyện, kể có nghệ thuật, hấp dẫn, hơn ai hết, tôi hiểu: Trước tiên, giáo viên phải thuộc truyện, nắm vững tình tiết, cốt truyện, hiểu cặn kẽ nội dung, ý nghĩa và bài học rút ra từ truyện. Lúc đầu, tôi đọc thầm toàn bộ truyện kể cả phần hướng dẫn ở sách giáo viên. Sau đó, tôi đọc to thành tiếng có kết hợp ngữ điệu phù hợp để tìm giọng điệu chuẩn vì khi phát âm vang bên tai, tôi mới có thể nuôi cấy truyện kể đó trong kí ức của mình và giúp tôi tự kiểm tra khả năng nghệ thuật phát âm thực tế, để tôi biểu hiện được sắc thái ngôn ngữ của các nhân vật khác nhau, ngôn ngữ đối thoại theo tâm trạng nhân vật.	 
	Khi đọc truyện, tôi chú ý dừng ở những chỗ cần thiết để tìm hiểu rõ từng tình tiết, từ ngữ của truyện. Tôi lược ghi ra nháp những tình tiết chính để ghi nhớ. Cũng trong quá trình đọc truyện, tôi tìm hiểu những chú giải về từ ngữ, địa danh, tên nhân vật, ý nghĩa và bài học rút ra từ truyện. Phần ý nghĩa toát ra trực tiếp từ cốt truyện, còn phần tổng kết rút ra bài học có tính chất nâng cao, khái quát hơn.
 b.Tập kể chuyện
 Đọc và thâm nhập truyện là bước đầu làm quen với truyện kể. Như vậy là tôi mới thuộc nội dung truyện và văn bản truyện. Tôi đã tập kể một mình đó là quá trình tập kể chuyển ngôn ngữ từ văn bản in ấn sang ngôn ngữ của bản thân mình. Tôi tập kể theo nhiều cách thể nghiệm khác nhau sao cho bộc lộ được tâm lí nhân vật trong truyện một cách sâu sắc nhất. Tôi đã thoát li sách để kể bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu hàng ngày của mình, tất nhiên là có cách điệu hoá đi một chút nhưng tôi không biến mình thành người biểu diễn nghệ thuật và tiết kể chuyện không phải là tiết xem nghệ thuật nên việc tập kể chuyện chỉ dừng ở mức: Kể có nghệ thuật diễn cảm, kể rành mạch các tình tiết, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu. Kể lại được toàn bộ truyện nghĩa là giáo viên đã thuộc truyện đó cũng là cơ sở để người tôi chủ động trong tiết lên lớp. Khi đã kể lại được truyện, tôi chú trọng luyện kể kết hợp hài hòa giữa ánh mắt với động tác, cử chỉ, điệu bộ. Ánh mắt của người kể có vai trò rất quan trọng trong kể chuyện, nó là yếu tố cơ bản để làm cho người kể tạo dựng được câu chuyện có hồn. Nếu biết kết hợp hài hòa giữa ánh mắt với động tác, điệu bộ, cử chỉ thì câu chuyện mới sinh động, mới thu hút được học sinh. Muốn làm được điều này đòi hỏi người kể phải nhập vai, hòa mình vào câu chuyện. Vì vậy, người kể phải hiểu rõ tâm trạng vui buồn, hay tức giận động tác cho phù hợp với ngôn ngữ kể chuyện đó là biện pháp sư phạm có hiệu quả.
Ví dụ: Tôi sẽ không bắt chước tiếng cười, tiếng khóc, tiếng chó sủa, tiếng gà gáy một cách dễ dãi hay tự nhiên chủ nghĩa bởi nó sẽ gây ra hiện tượng cười đùa vô nguyên tắc.Vì tôi hiểu người giáo viên dù kể bất kì truyện nào cũng nên biết mình chỉ là người kể chứ không phải là người trực tiếp ở trong truyện đó.
c.Xác định rõ mục tiêu tiết kể chuyện.
 Mục tiêu mỗi bài học kể chuyện phải đảm bảo ba mặt: Kiến thức, kĩ năng, thái độ. Trong đó, chú trọng mục tiêu rèn luyện kĩ năng thực hành nghe và nói, rèn luyện khả năng tư duy, phát triển khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.
 Mục tiêu của bài học phải được xác định rõ ràng, phù hợp với trình độ học sinh. Nghĩa là làm sao để sau khi nghe giáo viên kể chuyện, học sinh nhớ lại được nội dung chính của câu chuyện, kể lại được từng đoạn và toàn bộ truyện, trong giờ kể chuyện đảm bảo tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều được thực hành và có những em kể được thật hay, hấp dẫn câu chuyện vừa học.
Ví dụ: Mục tiêu tiết học bài “Thỏ và Sư tử”.
- Nghe hiểu và kể được một đoạn truyện theo tranh truyện kể.
- Giáo dục học sinh yêu quý và bảo vệ những con vật có xung quanh mình.
	Ví dụ: Mục tiêu tiết học bài “Bông hoa cúc trắng”
- Kể lại được một đoạn của câu chuyện dựa theo tranh và gợi ý dưới tranh.(Học sinh khá, giỏi kể được toàn bộ câu chuyện theo tranh).
- Hiểu nội dung câu chuyện: Lòng hiếu thảo của cô bé làm cho đất trời cũng cảm động, giúp cô chữa khỏi bệnh cho mẹ.
d.Chuẩn bị đồ dùng trực quan:
Đồ dùng trực quan là một đồ dùng dạy học không thể thiếu được để hướng dẫn học sinh thực hành kể chuyện. Vì học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 còn nhỏ nên nhận thức của các em đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, việc hướng dẫn học sinh kể được câu chuyện thông qua trực quan cụ thể là rất cần thiết. Đồ dùng trực quan đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có tác dụng đối với kết quả giờ học cũng như tác động lớn đến tư duy nhận thức của học sinh để thể hiện nội dung câu chuyện, kích thích sự suy nghĩ, sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy mà đồ dùng dạy học phải đẹp, phù hợp với nội dung bài học, đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ và mang tính giáo dục cao.
Mỗi dạng bài kể chuyện tôi sử dụng đồ dùng khác nhau. Khi dạy kể chuyện ở các bài Ôn tập học vần trong phần Luyện nói đa số tôi dùng tranh minh họa các đoạn của truyện. Còn đối với dạng kể chuyện trong phần Luyện tập tổng hợp, cuối mỗi tuần học tôi phân loại các bài để sử dụng các đồ dùng trực quan khác nhau phù hợp với dạng bài dạy. Tôi phân loại các loại đồ dùng dạy học cho từng dạng kể chuyện,từng câu chuyện như sau:	
+Tranh minh hoạ các đoạn của câu chuyện 
 	.Loại thứ nhất tranh phẳng: đây là các tranh hiện nay đã được cấp trên trang bị đầy đủ với kích thước đủ lớn để tất cả học sinh trong lớp đều có thể nhìn thấy với màu sắc rực rỡ, kích thích sự háo hức, tò mò ở trẻ. Hơn nữa chất liệu tranh dày, cứng, bóng, đảm bảo tính thẩm mĩ cao.
.Loại thứ hai tranh nổi: là tranh phẳng được cắt ở những điểm thật khéo léo để có thể dựng lên như một sân khấu nhỏ nhằm thể hiện rõ từng nhân vật trong truyện giúp các em hình dung một cách trực quan hơn.
.Loại thứ ba là tranh động: Đối với học sinh lớp 1, mỗi câu chuyện đều có sức hấp dẫn các em. Các bức tranh minh hoạ cho từng đoạn truyện đã lôi cuốn rồi nhưng khi các nhân vật trong tranh lại còn hoạt động được thì các em lại càng ngạc nhiên, thích thú. Đây chính là cách kích thích rất lớn đến niềm hứng thú của các em và đặc biệt để lại ấn tượng sâu đậm trong các em về nội dung câu chuyện. Vì vậy, nếu có câu chuyện nào có thể làm tranh động được thì tôi đều tìm cách thể hiện.
 Ví dụ: Câu chuyện “Tre ngà”, tôi chuẩn bị tranh động cho các chi tiết: Chú bé Gióng lên ba vươn vai thành tráng sĩ, chi tiết: Gióng nhổ tre bên đường, chi tiết ngựa và Gióng bay về trời. 	
Hoặc câu chuyện “Cây khế”, các chi tiết có thể “động” được là: Chim bổ quả khế ăn, cánh chim vẫy vẫy, chim bay trên biển chở người em đi lấy vàng, chim hất người anh cùng túi vàng rơi xuống biển.
+Đồ dùng hoá trang: 
 	Đồ dùng hóa trang là những phục trang minh hoạ cho các nhân vật trong câu chuyện, là đồ dùng không thể thiếu trong phần hướng dẫn học sinh kể toàn bộ truyện. Đặc biệt là trong phần hướng dẫn học sinh kể theo cách phân vai.
 Ví dụ: Câu

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_mon_k.doc