SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 giải toán qua Internet (Violympic)
Toán học là một môn học có quan hệ khăng khít với tất cả các môn học khác. Học tốt môn Toán không những giúp cho học sinh nắm chắc kiến thức, kỹ năng cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội mà còn tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác thông qua rèn kỹ năng cũng như áp dụng vào trong đời sống sản xuất. Như lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Dù các bạn phục vụ ở ngành nào thì kiến thức toán học cũng rất cần cho các bạn”.
Bồi dưỡng học sinh năng khiếu giải toán có một vị trí quan trọng trong chương trình môn toán bậc Tiểu học, góp phần tích cực vào nhiệm vụ “Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” phục vụ đất nước. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, đẩy mạnh công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Chính vì vậy mà việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu “Giải toán ViOlympic” đang được các cấp quản lý, phụ huynh và học sinh quan tâm. Việc giải toán qua mạng Internet (ViOLympic) vừa là một sân chơi trí tuệ vừa là điều kiện để hoc sinh làm quen, tiếp cận và sử dụng Internet bằng một phương thức mới bổ ích và hiệu quả. Song để giúp các em tham gia thi giải toán có được kết quả tốt thì việc bồi dưỡng là yếu tố quan trọng nhất. Phương ngôn có câu: Trở thành nhân tài một phần do tài năng còn chín mươi chín phần là ở sự tôi luyện. Vậy cần bồi dưỡng cho các em những gì? Bồi dưỡng như thế nào? là cả một vấn đề mà tôi còn trăn trở. Qua 3 năm nghiên cứu và trải nghiệm, bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm để cùng đồng nghiệp trao đổi, chia sẻ, giúp đỡ nhau nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 giải toán qua Internet (Violympic)”.
PHẦN MỤC LỤC MỤC LỤC TRANG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: 1.4. Phương pháp nghiên cứu: 1 1 1 1 1 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận 2 2 2.2. Thực trạng của vấn đề 2 2.3. Các giải pháp thực hiện. 3 2.3.1. Vai trò của người thầy. 3 2.3.2. Lựa chọn đúng đối tượng học sinh. 4 2.3.3. Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng. 4 2.3.4. Cách tổ chức dạy bồi dưỡng đạt hiệu quả. 6 2.3.5. Hướng dẫnhọc sinh kĩ năng thực hành trên máy tính. 15 2.4. Hiệu quả khi áp dụng. 19 3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Toán học là một môn học có quan hệ khăng khít với tất cả các môn học khác. Học tốt môn Toán không những giúp cho học sinh nắm chắc kiến thức, kỹ năng cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội mà còn tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác thông qua rèn kỹ năng cũng như áp dụng vào trong đời sống sản xuất. Như lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Dù các bạn phục vụ ở ngành nào thì kiến thức toán học cũng rất cần cho các bạn”. Bồi dưỡng học sinh năng khiếu giải toán có một vị trí quan trọng trong chương trình môn toán bậc Tiểu học, góp phần tích cực vào nhiệm vụ “Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” phục vụ đất nước. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, đẩy mạnh công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Chính vì vậy mà việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu “Giải toán ViOlympic” đang được các cấp quản lý, phụ huynh và học sinh quan tâm. Việc giải toán qua mạng Internet (ViOLympic) vừa là một sân chơi trí tuệ vừa là điều kiện để hoc sinh làm quen, tiếp cận và sử dụng Internet bằng một phương thức mới bổ ích và hiệu quả. Song để giúp các em tham gia thi giải toán có được kết quả tốt thì việc bồi dưỡng là yếu tố quan trọng nhất. Phương ngôn có câu: Trở thành nhân tài một phần do tài năng còn chín mươi chín phần là ở sự tôi luyện. Vậy cần bồi dưỡng cho các em những gì? Bồi dưỡng như thế nào? là cả một vấn đề mà tôi còn trăn trở. Qua 3 năm nghiên cứu và trải nghiệm, bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm để cùng đồng nghiệp trao đổi, chia sẻ, giúp đỡ nhau nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 giải toán qua Internet (Violympic)”. - Phạm vi, đối tượng nghiên cứu : Những học sinh được chọn để bồi dưỡng giải toán qua Internet (Violympic) lớp 5 của trường Tiểu học Xuân Phú. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Giúp giáo viên hiểu và nắm vững những điểm chính về nội dung, phương pháp bồi dưỡng “giải toán ViOlympic”. Trên cơ sở đó phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu thông qua việc rèn kỹ năng giải Toán. Nâng cao chất lượng giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5 “giải toán ViOlympic”. Trên cơ sở khai thác các hoạt động của học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Một số biện pháp Bồi dưỡng học sinh lớp 5 giải Toán trên mạng Internet. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu sách, tài liệu tham khảo, văn bản, luật giáo dục, điều lệ trường Tiểu học, nhiệm vụ năm học và các tài liệu có liên quan đến đề tài. - Phương pháp điều tra, quan sát, khảo sát thông qua bài kiểm tra của học sinh; thông qua trực tiếp giảng dạy lớp 5 để thu thập thông tin, phân tích những khó khăn, vướng mắc của học sinh khi giải toán trên mạng Internet. - Nhóm phương pháp thực nghiệm sư phạm: Được sử dụng thử nghiệm các biện pháp. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Giải toán qua mạng Internet (ViOLympic) là một sân chơi trí tuệ được thực hiện theo quyết định số 4413/QĐ-BGDĐT ngày 04/10/2010 về ban hành thể lệ cuộc thi giải toán qua Internet dành cho học sinh cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở. Có thể nói, toàn bộ kiến thức được đề cập đến trong sân chơi này được ban tổ chức sắp xếp một cách hệ thống theo phân phối chương trình môn Toán từng khối lớp ở trường Tiểu học. Kể từ năm học 2008 – 2009 đến 2009-2010 tổng số vòng thi của ViOLympic là 35 vòng, từ năm hoc 2010-2011 thì số vòng thi của ViOLympic giảm xuống còn 19 vòng, tương ứng với 35 tuần thực học ở Tiểu học. Mỗi vòng thi gồm ba bài thi với thời gian làm bài tổng cộng là 60 phút (mỗi bài 20 phút). Mỗi bài thi hoàn thành sẽ có tổng số điểm từ 100 điểm, tổng số điểm tối đa của mỗi vòng thi là 300 điểm. Nội dung các bài thi trong mỗi vòng thi chủ yếu là kiến thức tổng hợp mà học sinh đã được tiếp cận trong chương trình toán của tuần đó hoặc kiến thức nâng cao của các tuần trước. Nội dung này được sắp xếp từ dễ đến khó trong từng bài thi. Vượt qua cả ba bài thi với số điểm ≥ 50% tổng số điểm là hoàn thành vòng thi. Nếu đạt số điểm dưới 50% tổng số điểm của vòng thi đó thì thí sinh phải thi lại (trừ các vòng thi cấp huyện, tỉnh, quốc gia). Hình thức các bài thi cũng khá đa dạng. Có thể là sắp xếp các số theo thứ tự, điền số vào chỗ chấm, điền số vào ô trống, tìm các cặp số hoặc biểu thức có giá trị bằng nhau, giải các bài toán để vượt qua các chướng ngại vật Điều đáng nói là dù dưới hình thức nào thì nội dung các bài thi cũng hướng về việc ôn luyện hoặc khai thác sâu các kiến thức đã học trong thời gian trước đó, đây chính là cơ hội tốt nhất để học sinh luyện tập, ôn tập, củng cố kiến thức đã học và rèn luyện kĩ năng giải các bài tập nâng cao. Chính vì vậy, có thể nói một cách lạc quan rằng: “ViOLympic toán học” là cơ hội để phát triển năng lực học toán cho học sinh Tiểu học. Chúng ta đều biết, với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, việc phát triển năng lực học tập của học sinh tiểu học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó “hứng thú học tập” là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em. Hình thức học tập “học mà chơi, chơi mà học” trên ViOLympic quả là một sân chơi hấp dẫn, thu hút mọi học sinh tham gia. Ở đó, các em được ôn luyện kiến thức một cách thoải mái, không bị gò bó bởi những lời nhắc nhở, thúc giục của thầy cô mà các em được nhận những lời khen từ chú thỏ xinh xắn của ViOLympic luôn hoan hô khích lệ:“Chúc mừng bạn đã hoàn thành xuất sắc bài thi” Bên cạnh sự cổ vũ khích lệ rất kịp thời đó, học sinh Tiểu học cũng rất cần sự chỉ dẫn hoặc kết luận để khẳng định ngay kết quả làm bài của mình. Điều này không phải lúc nào cô giáo cũng đáp ứng ngay bằng câu trả lời “đúng” hay “sai” vì còn phụ thuộc vào tiến độ của giáo án hoặc số lượng học sinh cần giúp đỡ riêng (thông thường phải chờ đến khi cô giáo chữa bài mới biết). Nhưng ViOLympic thì ngược lại, đúng hay sai chỉ cẩn “Enter” là biết ngay, đây là điểm đặc biệt tạo nên niềm vui và hứng thú học toán cho học sinh tiểu học: 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. + Trong những năm qua, việc bồi dưỡng học sinh giải toán trên mạng Internet gặp nhiều thuận lợi như: - Được BGH quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên và học sinh. - Giáo viên nhiệt tình nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp. - Chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh ủng hộ. - Học sinh tích cực, hứng thú, quan tâm tới cuộc thi. + Mặc dù có nhiều thuận lợi như vậy nhưng hiệu quả chưa cao. Cụ thể: - Số lượng học sinh đạt điểm cao ở các vòng còn ít. - Giao lưu trong các vòng thi cấp trường chất lượng giải chưa cao, số lượng còn hạn chế. + Sỡ dĩ kết quả như vậy có rất nhiều nguyên nhân: - Học sinh tham gia câu lạc bộ do tôi phụ trách chủ yếu là con em dân tộc thiểu số, bố mẹ làm nghề nông nên ít có điều kiện chăm chút, kèm cặp các em. Việc lựa chọn học sinh vào câu lạc bộ để bồi dưỡng cũng gặp không ít khó khăn, giáo viên đành phải “ bó đũa chọn cột cờ ” để lựa chọn và bồi dưỡng cho các em. - Do điều kiện gia đình các em còn khó khăn đồng thời trình độ dân trí của phụ huynh có nhiều hạn chế nên để các em giải được các bài toán khó và có kĩ năng sử dụng máy tính hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của giáo viên. Giáo viên vừa là người dạy kiến thức cho các em lại là người dạy cho các em kĩ năng sử dụng máy tính nên rất vất vả. - Khi chưa có kinh nghiệm, giáo viên soạn thảo chương trình bồi dưỡng hết sức khó khăn. - Việc tổ chức cho học sinh thực hành trên máy còn lúng túng, mắc lỗi, sai sót nhiều. - Trong khi dạy giải toán, giáo viên mới chỉ chú ý để đảm bảo qua vòng thi mà chưa chú ý tới rèn kỹ năng giải toán (Phân tích, tổng hợp, suy luận) cũng như việc phát triển tư duy toán học cho học sinh. - Một số học sinh chưa có phương pháp học tập và tư duy để tìm cách giải; kỹ năng tư duy của học sinh còn nhiều hạn chế như kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp còn rất yếu. - Khi giải toán học sinh chưa thực hiện đầy đủ các bước giải toán: các em thường không đọc kỹ đề bài toán nên dễ hiểu sai yêu cầu đề bài dẫn đến giải bài sai. Việc đọc bài toán kết hợp với suy luận logic của học sinh còn hạn chế. - Thời gian cho một bài thi, vòng thi rất ít (60 phút). Trong khi đó các em phải giải quyết hết lượng kiến thức rất lớn và có độ khó cao. Nắm bắt được nguyên nhân trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu và xin ý kiến của ban giám hiệu nhà trường được áp dụng vào dạy ở khối lớp 5 do tôi phụ trách. Với cách dạy này, học sinh của tôi đã yêu thích môn học, tìm ra đáp số nhanh gọn và chuẩn xác hơn. Sau đây tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã thực hiện. 2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH 2.3 1. Vai trò người thầy: Từ xa xưa, nhân dân ta đã có câu “ Không thầy, đố mày làm nên ”. Đúng vậy, người thầy có một vai trò hết sức quan trọng trong việc dạy bảo, truyền thụ kiến thức cho học sinh. Người thầy là người chỉ đạo, hướng dẫn, gợi ý, dẫn dắt học sinh nắm được phương pháp học nói chung và giải toán nói riêng. Nếu học sinh có kiến thức tốt, có tố chất thông minh mà không được mài giũa, bồi dưỡng thì sẽ ít có hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Vì vậy, bản thân người thầy phải không ngừng học hỏi, nâng cao nghiệp vụ, phương pháp của mình bằng nhiều cách như tự học qua nghiên cứu tài liệu, qua các trang mạng, qua đồng nghiệp - Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất về cơ sở vật chất, sắp xếp thời gian cho các em tham gia bồi dưỡng như thế nào để không ảnh hưởng đến giờ học chính khóa của các em. - Thông qua cuộc họp phụ huynh, phổ biến kế hoạch và thảo luận các biện pháp hỗ trợ của phụ huynh HS cho công tác này, đồng thời cần nêu bật mặt tích cực trong việc truy cập và tiếp cận thông tin trên mạng internet làm cho các bậc phụ huynh có con em học câu lạc bộ giải toán ViOLympic thấy được lợi ích của vấn đề này mà có thể tạo điều kiện tốt nhất như cho con em mình đến các quán Internet hoặc những gia đình có điều kiện thì mua sắm máy tính và lắp đặt mạng để các em tham gia học và có thể tự giải tại nhà trong thời gian nghỉ. 2.3.2. Lựa chọn đúng đối tượng học sinh: Giáo viên phải đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, lựa chọn đúng đối tượng học sinh để bồi dưỡng. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng mà còn tránh được việc bỏ sót những em học giỏi, hoặc chọn nhầm những em không có tố chất theo học sẽ bị quá sức. * Những căn cứ để lựa chọn: + Lựa chọn các đối tượng học sinh thông qua các giờ học: Những học sinh sáng dạ thường chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến, ý kiến thường đúng và có sáng tạo. + Lựa chọn dựa vào việc chấm, chữa bài: Những em thông minh, chắc chắn thường có ý thức học tập tốt, làm bài đầy đủ, trình bày bài thường chặt chẽ, khoa học và thường có ý thức xung phong chữa bài tập cũ hoặc có ý kiến hay, góp phần cho bài tập phong phú hơn. + Lựa chọn thông qua các vòng thi kiểm tra: Để đánh giá một cách chính xác và nắm được mức độ tiếp thu cũng như sự tiến bộ của học sinh thì cần tổ chức thi, kiểm tra và sàng lọc qua nhiều vòng. Nói tóm lại, lựa chọn học sinh là công việc rất quan trọng bởi nó có vai trò rất lớn góp phần dẫn đến thành công. Tiêu chí để tôi chọn lựa học sinh để bồi dưỡng và đi thi là những học sinh tính toán nhanh, tư duy tốt, cẩn thận, chăm chỉ chịu khó và biết sử dụng máy tính. 2.3.3. Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng: Hiện nay, chương trình bồi dưỡng không có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khóa. Hơn nữa, hầu hết sách nâng cao, sách tham khảo hiện nay không soạn thảo theo đúng trình tự như chương trình học chính khóa, mà thường đi theo các dạng. Trong khi đó, các trường thường tổ chức học sinh vừa học chính khóa vừa phối hợp nâng cao. Vì thế soạn thảo nội dung chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Điều cần thiết là giáo viên cần phải tìm nội dung đề từng vòng thi trên cơ sở đó mà soạn thảo nội dung hướng dẫn học sinh thông qua từng dạng của nội dung từng đề (trước hết giáo viên phải đăng kí thành viên với tư cách là học sinh để tham gia giải mà nắm được nội dung và dạng toán từng đề, thấy được những vướng mắc có thể xảy ra đối với học sinh.Từ đó giáo viên có những định hướng đúng đắn, đúc rút và cô đọng nội dung chương trình bồi dưỡng, phù hợp với đối tượng học sinh và thời gian ôn luyện). Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập, củng cố, kiểm tra. Thông thường cứ 2 đến 3 tiết củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao thì cần có 1 tiết luyện tập, củng cố và cứ 6 đến 7 tiết thì cần có 1 luyện tập chung để củng cố khắc sâu. Chẳng hạn: Khi dạy dạng toán “ Một số bài toán về số và chữ số ”, tôi cho học sinh làm theo mức độ khó tăng dần (Bài 1, 2 chỉ là những bài áp dụng công thức; bắt đầu từ bài 3 các em không chỉ áp dụng công thức mà còn phải suy luận dựa theo điều kiện cụ thể của từng bài toán). Bài 1: Có tất cả bao nhiêu số có 4 chữ số? Bài 2: Có tất cả bao nhiêu số có 3 chữ số khác nhau ? Bài 3: Có tất cả bao nhiêu số có 4 chữ số khác nhau mà các chữ số đều lẻ. Bài 4: Có tất cả bao nhiêu số có 2 chữ số mà hai chữ số đều chẵn. Bài 5: a) Viết số lớn nhất có 8 chữ số sao cho trong số đó không có chữ số nào đươc viết từ 2 lần trở lên. b) Viết số nhỏ nhất có 7 chữ số sao cho mỗi chữ số trong số đó chỉ được viết một lần. Bài 6: Có bao nhiêu số có 4 chữ số mà mỗi số không có chữ số 5 ở hàng nghìn và hàng trăm. Bài 7: Hãy cho biết có tất cả bao nhiêu số có 4 chữ số mà tổng các chữ số của mỗi số đó bằng 3? Bài 8: a) Viết số tự nhiên bé nhất có tổng các chữ số bằng 20. b) Tìm số tự nhiên lớn nhất có các chữ số khác nhau tổng các chữ số bằng 12. Hay khi dạy bài tính tổng của dãy số cách đều trong dạng Một số bài toán liên quan đến dãy số, tôi cũng bồi dưỡng cho học sinh theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp (Bài 1, 2 chỉ là những bài áp dụng công thức tính tổng của dãy cách đều; bài 3, 4, 5 mức độ nâng cao hơn, đó là các em phải thêm bước tìm số cuối, hoặc số đầu hoặc tìm cả số đầu và số cuối rồi mới tính được tổng. Nhưng đến bài 6, 7 các em lại phải dựa vào công thức tính tổng vận dụng ngược lại để tìm tổng số đầu và số cuối rồi áp dụng dạng toán tìm hai số biết tổng và hiệu để tìm mỗi số). Bài 1: Cho dãy số: 3; 6; 9; 12; ... ;1341; 1344. Tính tổng dãy số trên. Bài 2: Tính tổng: 1 + 3 + 5+ .+ 99 Bài 3: Hãy tính tổng các dãy sau. a). 1; 5; 9; 13; 17; ... (có 80 số hạng). b). ...; ...; ...; 17; 27; 44; 71; 115. (có 8 số hạng). Bài 4: Tính tổng của tất cả các số chẵn nhỏ hơn 100 Bài 5: Tính tổng của tất cả các số lẻ chia hết cho 5 nhỏ hơn 100 Bài 6: Một dãy phố có 40 nhà. Số nhà của 40 nhà đó được đánh là các số chẵn liên tiếp. Biết tổng của 40 số nhà của dãy phố đó bằng 3960. Hãy cho biết số nhà đầu tiên và số nhà cuối cùng của dãy phố đó ? Bài 7: Một dãy phố có 20 nhà. Số nhà của 20 nhà đó được đánh là các số lẻ liên tiếp. Biết tổng của 20 số nhà của dãy phố đó bằng 1000. Hãy cho biết số nhà đầu tiên và số nhà cuối cùng của dãy phố đó ? ... Còn đối với Một số bài toán về tìm hai số biết tổng và tỉ, tôi cũng ôn luyện cho các em theo mức độ nâng cao dần (Bài 1, 2 ở mức độ đơn giản, chỉ áp dụng công thức, các bài 3, 4, 5, 6, 7 ẩn tổng, còn các bài 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 lại ẩn tỉ số, cách ẩn tỉ ở mỗi bài khác nhau, bước tìm tỉ số ở bài sau khó hơn tìm tỉ số ở bài trước) Bài 1: Tìm 1 phân số biết tổng tử số và mẫu số của phân số đó là 198 và phân số đó có giá trị bằng . Bài 2: Tổng 2 số là 336. Tỉ của 2 số là 1 . Hai số đó là : ; Bài 3: Trong một phép chia hai số tự nhiên biết thương bằng 3 số dư bằng 41 và biết tổng của số bị chia, số chia và số dư bằng 426. Tìm số chia và số bị chia của phép chia đó. Bài 4: Hiện nay tổng số tuổi của hai bố con là 60 tuổi. Biết sau 15 năm nữa tuổi bố gấp 2 lần tuổi con. Tính tuổi hai bố con hiện nay. Bài 5: Hiện nay tổng số tuổi của hai bố con là 68 tuổi. Biết 4 năm trước đây tuổi bố gấp 3 lần tuổi con. Tính tuổi hai bố con hiện nay. Bài 6: Tìm hai số biết tổng của chung bằng 257 và nếu thêm vào số bé 9 đơn vị số lớn 13 đơn vị thì được hai số có tỉ số bằng . Bài 7: Một hình chữ nhật có chu vi là 54 m. Tính diện tích hình chữ nhật đó, biết rằng 4 lần chiều dài bằng 5 lần chiều rộng. Bài 8: Hiện nay tổng số tuổi của hai ông cháu là 78 tuổi. Biết tuổi cháu có bao nhiêu tháng thì tuổi ông có bấy nhiêu năm. Tính tuổi hai ông cháu hiện nay. Bài 9: Tìm hai số biết tổng của chúng bằng 195 và biết nếu đem số thứ nhất nhân với 2; số thứ 2 nhân với 3 thì được hai tích có kết quả bằng nhau Bài 10: Tìm 2 số biết tổng của chúng bằng 175,2 và nếu đem số thứ nhất nhân 0,9 ; số thứ hai nhân với 1,5 thì được hai tích bằng nhau. Bài 11: Cho 3 số có tổng bằng 465. Biết nếu đem số thứ nhất nhân với 2 số thứ hai nhân với 3 và số thứ ba nhân với 5 ta được ba tích bằng nhau. Vậy số thứ hai là. Bài 12: Tìm hai số biết tổng của chúng bằng 1029 và biết nếu đem số thứ nhất chia cho 2, số thứ hai chia cho 5 thì được hai tích có kết quả bằng nhau. Bài 13: Đội TDTT của nhà trường có 80 bạn; trong đó số bạn nữ bằng số bạn nam. Tính số bạn nữ, số bạn nam trong đội đó. Bài 14: Hai kho chứa tất cả 714 tấn gạo, trong đó số gạo ở kho A bằng số gạo ở kho B. Hỏi kho nào chứa nhiều gạo hơn và nhiều hơn bao nhiêu? Bài 15: Một cửa hàng có 285 kg gạo tẻ và gạo nếp. Sau khi bán được số gạo tẻ và số gạo nếp thì còn lại số gạo tẻ bằng số gạo nếp. Hỏi lúc đầu cửa hàng có bao nhiêu ki-lô-gam gạo mỗi loại? Trên đây chỉ là một số dạng bài mà tôi bồi dưỡng cho các em. Tuy nhiên, khi xây dựng chương trình và nội dung bồi dưỡng, để đạt được kết quả còn phải tùy thuộc vào mức độ tiếp thu của học sinh, thời gian bồi dưỡng. 2.3.4. Cách tổ chức dạy bồi dưỡng đạt hiệu quả: Việc tổ chức hình thức, phương pháp dạy phù hợp sẽ mang lại chất lượng dạy học cao. Vì vậy, trước hết phải chúng ta phải biết chọn lọc những phương pháp giải dễ hiểu nhất để hướng dẫn học sinh. Không nên máy móc theo các sách giải. Cần vận dụng và đổi mới phương pháp dạy học, tạo cho học sinh có cách học mới, không gò bó, không áp đặt, tôn trọng và khích lệ những sáng tạo mà học sinh đưa ra. 2.3.4.1. Tổ chức lập nick Đầu năm học, tôi tiến hành cho HS đăng ký tham gia các câu lạc bộ, trong đó có câu lạc bộ “Giải toán trên mạng Internet”. Sau khi có danh sách, tôi hướng dẫn các em lập nick, mỗi em ít nhất có 2 nick trở lên. Nick thứ nhất nhằm mục đích cho học sinh tự ôn luyện và lấy đề. Nick thứ hai làm sau khi đã có sự hướng dẫn của giáo viên nhằm kiểm tra lại việc tiếp thu bài của học sinh. 2.3.4.2. Tổ chức HS tự ôn luyện trên máy theo từng vòng và lấy đề. Trong một vòng thi nhưng mỗi em có thể gặp một vài bài mới khác nhau, hoặc cùng dạng bài nhưng khác về câu từ. Chính vì vậy, tôi thường cho các em tự luyện trên máy rồi hướng dẫn các em cách chụp lại bài như sau: Bước 1: Đăng nhập và vào bài thi, khi đề bài xuất hiện ta nhấn nút Print Screen (Ở mỗi máy tính có thể nút này hiện rõ tên là Print Screen hoặc Prt Sc / Sys Rq ...tùy loại bàn phím hoặc tùy loại máy tính để bàn hay laptop). Bước 2: Nhấn ẩn trang (dấu trừ ở góc trên, bên phải màn hình), mở trang trắng và nhấn vào Paste, như vậy là ta đã chụp lại đề bài và thao tác chụp như vậy cho đến hết bài thi. Bước 3: Lưu lại trang đã chụp bằng cách nhấn Save hoặc Save As. Việc làm này đã giúp tôi có được hệ thống bài tậ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_giai_toan_qua_inte.doc