SKKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá
Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, nhân loại đã phát minh và chứng kiến sự tiến triển thần kỳ của công nghệ thông tin (CNTT). Những thành tựu của CNTT đã góp phần rất quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin mang tính chất toàn cầu, đồng thời CNTT cũng thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đổi mới trong giáo dục, tạo ra công nghệ giáo dục với nhiều thành tựu rực rỡ.
Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công nghệ thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục. Các phần mềm này rất tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu, bảng tương tác cũng như trên các thiết bị hỗ trợ khác như tivi, đầu video vừa tiết kiệm được thời gian cho người giáo viên, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy.
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy. CNTT không chỉ dừng ở việc đổi mới phương pháp dạy học mà còn tham gia vào mọi lĩnh vực trong trường mầm non, là công cụ hỗ trợ đắc lực ở tất cả các khâu, các nội dung trong việc giáo dục trẻ.
Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi nói riêng góp phần thực hiện đổi mới giáo dục, vừa tiết kiệm được thời gian cho giáo viên, vừa tiết kiệm được kinh phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy. Vì vậy, việc ứng dụng CNTT cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 phải có mục đích, có kế hoạch, giúp quá trình dạy học đạt được mục tiêu đề ra.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay, nhân loại đã phát minh và chứng kiến sự tiến triển thần kỳ của công nghệ thông tin (CNTT). Những thành tựu của CNTT đã góp phần rất quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin mang tính chất toàn cầu, đồng thời CNTT cũng thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đổi mới trong giáo dục, tạo ra công nghệ giáo dục với nhiều thành tựu rực rỡ. Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công nghệ thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục. Các phần mềm này rất tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu, bảng tương tác cũng như trên các thiết bị hỗ trợ khác như tivi, đầu videovừa tiết kiệm được thời gian cho người giáo viên, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy. CNTT không chỉ dừng ở việc đổi mới phương pháp dạy học mà còn tham gia vào mọi lĩnh vực trong trường mầm non, là công cụ hỗ trợ đắc lực ở tất cả các khâu, các nội dung trong việc giáo dục trẻ... Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi nói riêng góp phần thực hiện đổi mới giáo dục, vừa tiết kiệm được thời gian cho giáo viên, vừa tiết kiệm được kinh phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy. Vì vậy, việc ứng dụng CNTT cho trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 phải có mục đích, có kế hoạch, giúp quá trình dạy học đạt được mục tiêu đề ra. Trên thực tế, việc ứng dụng CNTT đã và đang được thực hiện trong các trường mầm non và được giáo viên tiếp nhận với các mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, nhận thức, năng lực khác nhau của mỗi người, mỗi trường. Qua việc thực hiện công tác giảng dạy tại trường mầm non Vĩnh Thành, tôi thấy một số giáo viên đang còn rụt rè, chưa mạnh dạn đôi khi còn ngại khi nói đến dạy học có ứng dụng CNTT cho nên hiệu quả giờ học chưa cao. Chính vì thế, là một người giáo viên mầm non, tôi không chỉ cần có sự hiểu biết đầy đủ về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mà còn phải nắm vững mục tiêu, nội dung, đặc biệt là phương pháp giáo dục trẻ ở từng độ tuổi. Hơn thế nữa, tôi còn thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong toàn ngành giáo dục nói chung và bậc học Mầm non nói riêng, trong đó có mục yêu cầu đối với giáo viên “Biết sử dụng công nghệ thông tin trong việc soạn thảo và khai thác các tư liệu phục vụ công tác chuyên môn” để từ đó góp phần giúp trẻ chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập. Từ đặc điểm của bậc học mầm non là dạy trẻ thông qua hình thức “học bằng chơi, chơi mà học” vì thế tôi luôn mong muốn tìm cho mình cách dạy học để khơi gợi khả năng ham học hỏi, sự tò mò tìm tòi khám phá của trẻ, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ trong tất cả các hoạt động giáo dục. Để đáp ứng được sự phát triển chung và nhu cầu thực tế của xã hội thì việc vận dụng công nghệ thông tin và các trang thiết bị hiện đại vào dạy học hết sức cần thiết và giúp giáo viên cập nhật thông tin một cách chính xác, hiệu quả, truyền tải kiến thức nhanh nhất đến với trẻ. Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi mạnh dạn đưa ra thực hiện: “Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thành, từ đó góp phần nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giáo dục cho trẻ ở trường mầm non. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi tại trường mầm non Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Bản thân tôi tiến hành đọc tham khảo tài liệu liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi. Phân tích tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức để xây dựng cơ sở khoa học của đề tài. - Phương pháp quan sát sư phạm: Tiến hành quan sát việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi tại trường mầm non Vĩnh Thành hiện nay. - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp này để xử lý số liệu đã điều tra giúp cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi của giáo viên hiện nay. Giúp cho việc đánh giá kết quả thực trạng nâng cao độ tin cậy của kết luận. - Phương pháp phân tích, đánh giá: Phương pháp này được sử dụng khi phân tích làm sáng tỏ việc vận dụng sáng tạo ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Có thể nói, ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin đã trở nên phổ biến và không thể thiếu trong mọi phương tiện trên tất cả các lĩnh vực, công nghệ thông tin ngày càng được quan tâm và phát triển mạnh mẽ trong mọi mặt của đời sống xã hội. Giáo dục mầm non là bậc học khởi đầu của hệ thống giáo dục quốc dân, làm tốt công tác giáo dục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân trẻ. Tư duy của trẻ mầm non là tư duy trực quan hình ảnh là chủ đạo, nên việc giáo viên đưa ra những bài học gắn liền với hình ảnh sẽ giúp trẻ nhớ lâu và khắc sâu kiến thức nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị số 58- CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị nêu rõ: “Ứng dụng CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước”. Phát triển nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển CNTT trong đó có nội dung: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học”. [1] Công văn số 4987/BGDĐT- CNTT ngày 2/8/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2012-2013 có nêu rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục, chỉ đạo ứng dụng CNTT trong học tập và giảng dạy theo hướng người học có thể học qua nhiều nguồn học liệu”. [2] Nghị quyết số 44/NQ- CP ban hành chương trình hành động của chính phủ. Nghị quyết số 29/ NQ- TW ngày 4/11/ 2013 hội nghị lần thứ tám ban chấp hành trung ương khoá XI đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học nhằm phát huy vai trò của CNTT và các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trong quản lý về giáo dục và đạo tạo. Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng CNTT”. [3] Quyết định số 698/QĐ- TT ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 cũng đặt ra mục tiêu: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giảng dạy và trong quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học. Đến năm 2020, toàn bộ học sinh các cơ sở giáo dục phổ thông và các cơ sở giáo dục khác được học ứng dụng CNTT”. [4] Như vậy, cho trẻ tiếp cận với CNTT vào trong giảng dạy vô cùng có ý nghĩa và có tác dụng to lớn trong giáo dục nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện như: Trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, khả năng nhận thức của trẻMặt khác, ứng dụng CNTT còn giúp trẻ nhận biết, khám phá thế giới xung quanh, giúp trẻ giao tiếp với mọi người. Bên cạnh đó thì việc ứng dụng CNTT còn giúp trẻ hứng thú trong học tập, vui chơi, và vận dụng sự hiểu biết và khả năng của trẻ vào hoạt động hằng ngày, nhằm kích thích trẻ tự nguyện tham gia vào hoạt động một cách tích cực, nhẹ nhàng, thoải mái. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1.Thuận lợi: Năm học 2016 - 2017 tôi tiếp tục được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi. Được trực tiếp giảng dạy, chăm sóc trẻ là điều kiện tốt để tôi tìm hiểu và đưa ra các phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin đạt kết quả. Bản thân luôn được ban giám hiệu sát sao chỉ đạo về chuyên môn, thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy. Phụ huynh trong lớp tin cậy ủng hộ nhiệt tình, đóng góp kinh phí để mua ti vi riêng cho lớp phục vụ cho cô và các cháu học tập đạt kết quả. Thường xuyên tham dự những buổi thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi có ứng dụng công nghệ thông tin do trường, phòng giáo dục tổ chức. Nên cũng đúc rút được kinh nghiệm cho bản thân. Trường có đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên yêu nghề mến trẻ, có trình độ chuyên môn vững vàng góp phần nâng cao trình độ chăm sóc giáo dục trẻ. Trường nằm ở trung tâm của xã nên thuận tiện cho các cháu đến trường. Được sự quan tâm của các cấp, các ngành giúp đỡ đầu tư trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ. Nhà trường đã có trang thiết bị như: Ti vi để kết nối, loa vi tính, tăng âm, loa, míc cớp, cài đặt mạng Internet và trang thiết bị dạy học cho lớp 5 tuổi đảm bảo yêu cầu giáo dục hiện nay. Đồng thời nhà trường cũng luôn chú trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ. Tạo điều kiện cho giáo viên tham dự các lớp tập huấn về chuyên môn, về ứng dụng công nghệ thông tin và khuyến khích giáo viên tự học, tự nghiên cứu để ứng dụng CNTT trong giảng dạy sao cho phù hợp và có hiệu quả khi sử dụng. 2.2.2. Khó khăn: Việc thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin của bản thân còn chưa chuyên sâu; việc chuẩn bị đồ dùng dạy học hàng ngày có những tiết chưa thật chu đáo, chưa hấp dẫn trẻ. Kinh phí đầu tư các thiết bị CNTT nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy ứng dụng CNTT trong trường mầm non còn rất hạn chế, trường chưa có bộ máy chiếu nên lớp tôi thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin bằng ti vi kết nối với máy laptop của cá nhân tôi. Tuy máy tính điện tử mang lại nhiều tiện ích cho việc giảng dạy của giáo viên mầm non, nhưng công cụ hiện đại này không thể hỗ trợ và thay thế hoàn toàn cho các phương pháp trực quan khác của người giáo viên. Đôi lúc có thể gây ra một số tình huống bất lợi trong quá trình tổ chức bài giảng như là mất điện, máy bị treo, bị virus...và mỗi khi có sự cố như vậy bản thân tôi chưa chủ động xử lý tình huống để đảm bảo tiến trình bài giảng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên mầm non còn đang ở giai đoạn đầu nên còn nhiều mặt hạn chế. Bước đầu cũng đã có những ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhưng chưa có sự linh hoạt, sáng tạo, chủ động hoàn toàn, do đó việc học hỏi đồng nghiệp về ứng dụng CNTT cũng gặp khó khăn. 2.2.3. Kết quả thực trạng: Với thực trạng trên tôi tiến hành khảo sát trẻ lớp tôi phụ trách vào giữa tháng 9/2016, với số trẻ 30 cháu. Để có thể đánh giá được thực trạng của trẻ, tôi đã đưa ra biện pháp khảo sát bằng cách tổ chức các hoạt động cho trẻ được tham gia như: Khám phá khoa học, làm quen với chữ cái, Làm quen với toán, Tạo hình, âm nhạc, văn học,... Tiêu chí Kết quả Trẻ đạt Trẻ chưa đạt Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Trẻ hứng thú tham các hoạt động. 21/30 70,0 9/30 30,0 Trẻ tích cực, tự tin tìm tòi, khám phá 19/30 63,4 11/30 36,6 Trẻ có khả năng tư duy, có sự sáng tạo. 17/30 56,7 13/30 43,3 Từ kết quả khảo sát trên, trong năm học qua tôi đã trăn trở và thực hiện một số biện pháp ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc. 2.3. Một số giải pháp đã và đang thực hiện. 2.3.1. Tăng cường công tác tự học tự bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho bản thân về tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT và kỹ năng ứng dụng CNTT. Nâng cao nhận thức cho bản thân về sự cần thiết của ứng dụng CNTT vào hoạt động dạy học, trên cơ sở đã nhận thức đúng đắn, sâu sắc. Tôi đã chủ động tìm tòi những giải pháp phù hợp với yêu cầu ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học, góp phần đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Tôi đã nâng cao nhận thức cho mình bằng nhiều hình thức: Trước hết tôi nghiên cứu và thực hiện tốt các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở, phòng Giáo dục và Đào tạo về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường, để từ đó tăng cường áp dụng vào thực tiễn. Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ một số tiết dạy thực nghiệm có ứng dụng công nghệ thông tin, qua đó tôi thấy rõ được tác dụng, hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục trẻ. Tham gia một số buổi hội thảo chuyên đề về ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện giảng dạy trẻ do phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Nâng cao trình độ cho bản thân về chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học. Tạo thói quen thường xuyên vào mạng, cập nhật thông tin, sưu tầm dữ liệu, phần mềm giáo dục, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục trẻ. 2.3.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức cho trẻ hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. Trước đây, để dạy một hoạt động kể truyện hay đọc thơ cho trẻ, theo cách thông thường là sử dụng tranh ảnh minh hoạ cho câu truyện, bài thơ. Vì thế, Tôi phải chuẩn bị vẽ tranh theo trình tự nội dung của cốt truyện; bài thơ, sau đó phải tô màu cho bức tranh thật đẹp và sinh động. Mặc dù, vẽ đẹp, hình ảnh đẹp nhưng cho trẻ quan sát tranh thì sự thu hút và lôi cuốn cháu chưa được cao. Khi cô kể truyện, đọc thơ cho trẻ nghe thì phải ngồi lật từng trang, vừa mất thời gian mà không gây hứng thú cho trẻ. Vì vậy, để chuẩn bị được một hoạt động kể truyện hay thơ cho trẻ đạt được kết quả là vất vả và mất thời gian. Nhưng hiện nay tôi sử dụng công nghệ thông tin để kể truyện, đọc thơ cho trẻ dưới nhiều hình thức khác như: Quan sát tranh truyện, mô hình bằng trực quan, quan sát các hình ảnh đẹp, âm thanh về câu truyện, bài thơ trên màn hình với màu sắc sinh động, hình ảnh to đã làm trẻ hứng thú tiếp thu và hiểu nội dung câu truyện, bài thơ nhanh hơn, hiệu quả giảng dạy đã đạt kết quả cao hơn. Với công nghệ tiên tiến tôi chỉ cần “nhấp chuột” là những hình ảnh sống động về câu truyện, bài thơ cứ lần lượt xuất hiện theo trình tự nội dung của tác phẩm. Bản thân cũng đỡ vất vả, trẻ hứng thú sẽ chú ý và tập trung trong giờ học hơn. Ngoài ra tôi kết hợp cho trẻ nghe âm thanh lời kể thực của câu chuyện, lời đọc bài thơ trên màn hình ti vi bằng cách cô mở loa cho trẻ nghe, đồng thời trẻ được quan sát các hình ảnh theo nội dung câu chuyện hay bài thơ đó trên màn hình. Qua đó trẻ có thể nhớ được tác phẩm nhanh và lâu hơn. Bên cạnh đó, để hiểu nội dung tác phẩm tôi còn tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Ô cửa bí mật” hoặc “những ô số kỳ diệu” trên màn hình: Cô giới thiệu ô cửa nêu cách chơi: Trong mỗi ô cửa là một ô số và bên trong ô số là câu hỏi, bên trong câu hỏi mở ra là các hình ảnh về nội dung câu chuyện, cho trẻ chơi theo tổ; nhóm đại diện 1 bạn lên chọn ô cửa xem bên trong là câu hỏi gì, cô đọc câu hỏi yêu cầu 1 phút để đội thỏa luận, suy nghĩ nhanh. Sau đó 1 phút thảo luận lên đưa ra câu trả lời đội hô to: “1, 2, 3- rê” bạn đại diện sẽ trả lời câu hỏi của cô, khi cô mở ô cửa ra có hình ảnh đúng với câu trả lời của đội bạn thì đội đó được thưởng. Cứ như thế trẻ sẽ tích cực tham gia chơi mở các ô cửa với các hiệu ứng chạy trên màn hình rất thích và hiểu nội dung bài thơ rất nhanh. (Trẻ lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi trường Mầm non Vĩnh Thành đang học trong giờ làm quen với văn học). 2.3.3. Sử dụng phần mềm Powerpoint vào tổ chức cho trẻ khám phá khoa học, khám phá xã hội. Đối với trẻ khám phá khoa học, khám phá xã hội mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn. Từ môi trường tự nhiên đến môi trường xã hội, giúp trẻ phát triển năng lực quan sát, kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp. Nếu trong giờ học, giáo viên chỉ cho trẻ quan sát tranh thì giờ học sẽ trở nên đơn điệu, trẻ sẽ nhàm chán, hiệu quả của giờ học sẽ có phần hạn chế. Còn khi sử dụng phần mềm powerpoint cho trẻ quan sát các hình ảnh có thật như: Tiếng kêu của các con vật, các con vật đang chuyển động, những bông hoa đầy sắc màu, những hình ảnh thiên nhiên phong phúvới những hình ảnh “thật” thì trẻ sẽ rất thích thú, tập trung chú ý, thích tìm tòi, khám phá, giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng. Vì thế, tôi đã xây dựng bài giảng điện tử bằng cách tạo ra các sile trình chiếu và kết hợp với hình ảnh, hiệu ứng âm thanh phù hợp với từng sile để tổ chức hoạt động khám phá trên màn hình thành công đạt kết quả. Ví dụ: Trong giờ hoạt động khám phá khoa học. Đề tài: “Tìm hiểu về các con vật trong gia đình” (Con Gà trống, Con Vịt, Con ngan...) với chủ đề : “Thế giới động vật”, để tổ chức giờ dạy đạt kết quả. Tôi đã vào internet ( trang “Các con vật trong gia đình” ) tải dwoload âm thanh các con vật về cho trẻ cùng khám phá nhằm phát triển khả năng nghe và nhận biết cho trẻ. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm hình ảnh các con vật sống trong gia đình đang chuyển động về máy tính, cài đặt kết nối các side với nhau trên máy tính để tạo ra các hình ảnh, dưới mỗi hình ảnh đánh tên các con vật để trẻ gọi tên nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đồng thời tôi đã sử dụng máy điện thoại quay những thước phim về một số con vật con gà, con mèo, con chó.. sau đó tạo thành một đoạn vi deo về vật nuôi trong gia đình, chèn những bài hát phù hợp với con vật để tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia vào hoạt động. Khi tổ chức hoạt động tiến hành các bước dạy tôi chỉ cần trình chiếu trên màn hình ti vi để cho trẻ quan sát, trẻ rất thích, trẻ thấy được những hình ảnh động về con vật, kể cả tiếng kêu của chúng, một số trẻ tỏ ra rất thích thú khi lần đầu tiên được thấy hình ảnh các chú chó con đang được chó mẹ chăm sóc hay các chú mèo con được mẹ dạy bắt chuột. Tiến hành hoạt động: Vào đầu hoạt động tôi cho cả lớp hát bài: “Gà Trống, Mèo con và Cún con” để ổn định tổ chức. Sau đó tôi hỏi: Các con vừa hát các bài hát nói về những con gì? Các con có biết con vật đó sống ở đâu? Ngoài những con vật trong bài hát các con còn biết những con vật nuôi nào nữa không? Hôm nay cô cùng các con cùng tìm hiểu và khám phá về các con vật nuôi trong gia đình nhé! Sau đó cô và trẻ đàm thoại: Cô đưa các hình ảnh về các con vật đang chuyển động ra cho trẻ gọi tên: Con gà trống, Con Gà Mái, Con Vịt? Dưới mỗi hình ảnh có tên các con vật để trẻ được gọi tên nhằm phát triển ngôn ngữ và nhận biết được mặt chữ. Đồng thời tôi cùng đàm thoại về các con vật, so sánh các con vật với nhau: Chúng sống ở đâu? ăn gì, có đặc điểm gì...? Cho trẻ quan sát lần lượt từng hình ảnh động của các con vật như đi kiếm ăn, tiếng kêu gọi bầy trên màn hình ti vi. Trẻ kể lại những gì trẻ được quan sát. Ngoài những con vật trẻ được quan sát, cô cho trẻ quan sát các con vật khác như: Con ngỗng, Con ngan để mở rộng thêm hiểu biết cho trẻ về các con vật nuôi trong gia đình. Như vậy, trẻ rất hứng thú học, thích tìm tòi, khám phá về môi trường xung quanh. Cuối cùng cô củng cố cho trẻ qua trò chơi. Trò chơi: “Đoán tên con vật” cho trẻ nghe âm thanh hoặc một bộ phận nào đó của các con vật rồi cho trẻ đoán tên con vật đó, mỗi đội sẽ cầm 1 sắc xô, khi âm thanh tiếng con vật xuất hiện, đội nào gõ sắc xô trước và đoán đúng tên con vật, khi cô mở màn hình ra đúng con vật đó thì đội đó chiến thắng và cho trẻ gọi tên con vật đó để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Với cách tổ chức cho trẻ khám phá môi trường xung quanh linh hoạt, hệ thống, khoa học kết hợp với các hình ảnh có thật, đẹp mắt, sinh động, lôi cuốn trẻ, giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng. Trẻ thoả mãn được nhu cầu ham hiểu biết và có khả năng ghi nhớ nhanh, rèn sự tư duy, óc tưởng tượng, khả năng nhanh nhạy sáng tạo cho trẻ. Như vậy trẻ sẽ rất thích học mỗi khi đến hoạt động khám phá khoa học và khả nă
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_de_nang_c.doc