SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1

 Không biết tự bao giờ, trải qua hàng nghìn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:“Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Hay:

“Lời nói chẳng mất tiền mua

 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

 Bằng ngôn ngữ nói chúng ta có thể đánh giá một người nào đó qua việc giao tiếp hằng ngày: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”[2]. Mặt khác, qua việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực. Ngay từ ngày đầu trẻ cắp sách đến trường, trẻ được giáo dục đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do vậy, học sinh lớp Một là nền tảng đầu cấp Tiểu học cần rèn luyện cho trẻ kĩ năng nói năng lễ phép, lịch sư, có biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế ta còn rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp. Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, không chỉ dạy cho học sinh kĩ năng nghe, đọc, viết, làm tính mà điều quan trọng là ta dạy cho học sinh sử dụng lời nói tình cảm, nói đúng nói chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ thông trong giao tiếp.

 Quan điểm giao tiếp, nói cụ thể hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra nguyên tắc, phương hướng xây dựng chương trình môn tiếng Việt. Mỗi phân môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục đích phát triển của lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải đến bây giờ mới được đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp” [2]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “ Trường học có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Phải làm cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta” [2]. Nghị Quyết số 29 NQ/TW, ngày 04/11/2013 nêu rõ: "Đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu GD & ĐT là Quốc sách hàng đầu; Phát triển GD & ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang thiết bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học" [2]; “Học đi đôi với hành” đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục [2]. Muốn thực hiện được điều này, trường Tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.

 

doc 21 trang thuychi01 10281
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
 Không biết tự bao giờ, trải qua hàng nghìn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:“Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Hay:
“Lời nói chẳng mất tiền mua
 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. 
 Bằng ngôn ngữ nói chúng ta có thể đánh giá một người nào đó qua việc giao tiếp hằng ngày: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”[2]. Mặt khác, qua việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực. Ngay từ ngày đầu trẻ cắp sách đến trường, trẻ được giáo dục đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do vậy, học sinh lớp Một là nền tảng đầu cấp Tiểu học cần rèn luyện cho trẻ kĩ năng nói năng lễ phép, lịch sư, có biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế ta còn rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp. Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, không chỉ dạy cho học sinh kĩ năng nghe, đọc, viết, làm tính mà điều quan trọng là ta dạy cho học sinh sử dụng lời nói tình cảm, nói đúng nói chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ thông trong giao tiếp.
 Quan điểm giao tiếp, nói cụ thể hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra nguyên tắc, phương hướng xây dựng chương trình môn tiếng Việt. Mỗi phân môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục đích phát triển của lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải đến bây giờ mới được đề cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “ Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp” [2]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “ Trường học có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Phải làm cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta” [2]. Nghị Quyết số 29 NQ/TW, ngày 04/11/2013 nêu rõ: "Đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu GD & ĐT là Quốc sách hàng đầu; Phát triển GD & ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang thiết bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học" [2]; “Học đi đôi với hành” đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục [2]. Muốn thực hiện được điều này, trường Tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.
 Trẻ lớp 1 trước khi đến trường đã “biết nghe, biết nói” tiếng Việt song vẫn chưa thật sự thành thạo và thực tế hoạt động nói năng của các em vân còn nhiều hạn chế. Thực tế dạy học hiện nay chưa có tài liệu nào viết chuyên sâu về phương pháp dạy Nói cho học sinh lớp 1 cũng như vẫn còn một số giáo viên chỉ coi trọng việc dạy đọc, viết mà chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng phần luyện nói nên giờ Tập đọc lớp 1 bị coi nhẹ, không gây được hứng thú học tập cho học sinh, kĩ năng nói của các em chưa đạt được như mong muốn. Đặc biệt trong lời nói của các em còn nặng phương ngữ, nói chưa đúng, chưa chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ thông ( kế hoạch 04/ KH - PGD & ĐT Quảng Xương ngày 04/ 1/ 2018). Là người trực tiếp giảng dạy lớp 1, tôi thấy rõ yêu cầu cấp bách việc dạy học Tập đọc, nhất là hoạt động luyện nói. Qua hoạt động này không chỉ giúp các em rèn kĩ năng trả lời đúng ý, nói đủ câu, mà còn rèn cho các em nói chuẩn Tiếng Việt theo tiếng phổ thông. Chính điều đó đã khiến tôi băn khoăn, trăn trở và thôi thúc tôi giành thời gian cùng với khả năng vốn có của mình đi sâu nghiên cứu, tìm tòi biện pháp giúp học sinh lớp 1 luyện nói đạt kết quả cao. Chính vì những lí do trên tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Nghiên cứu đề tài này, mục đích của tôi hướng tới là trên cơ sở đánh giá thực trạng và mức độ thành công của việc rèn rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1; xác định nguyên nhân thành công và đề ra biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Qua nhiều năm dạy học lớp 1, tiến hành khảo sát kĩ năng nói của học sinh, nhận thấy những khó khăn và nguyên nhân dẫn đến học sinh nói chưa đủ câu, đủ ý, còn nặng phương ngữ. Từ đó tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp khắc phục những hạn chế mà các em còn mắc phải nhằm nâng cao kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu để đạt kết quả tốt, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp. Trong đó, chủ yếu là các phương pháp sau: 
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tê.	
Bản thân tôi đã sử dụng phương pháp này để điều tra kĩ năng nói của học sinh trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và điều tra kết quả sau khi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 - Phương pháp thu thập thông tin.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân tôi đã tìm tòi tài liệu để nghiên cứu, hỗ trợ thêm cho việc viết sáng kiến kinh nghiệm. 
- Phương pháp thực hành, luyện tập.
 Khi áp dụng những biện pháp mới chủ yếu tôi hướng dẫn và học sinh tham gia luyện tập, thực hành.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh
 nghiệm, tác giả dùng phương pháp tổng kết để đánh giá lại những hiệu quả mà
sáng kiến đem lại..
- Phương pháp hỏi đáp.
Mục đích để nắm bắt được khả năng giao tiếp của học sinh, trong quá trình nghiên cứu đề tài. 
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu ở Tiểu học như sau: “Giáo dục Tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở” [2]. 
 Phân môn Học vần - Tập đọc có một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình môn Tiếng Việt của Tiểu học và “Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng Việt để học sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao nhất. Thông qua thực hành nói, học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sẽ lôi cuốn được toàn thể học sinh trong lớp tham gia hoạt động kể cả các em hoàn thành chậm và chưa hoàn thành. Luyện nói là rèn cho học sinh có kĩ năng giao tiếp và có thói quen hiểu tranh một cách dễ dàng; giúp cho học sinh chiếm lĩnh được tiếng Việt: công cụ để giao tiếp tư duy và học tập. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhât của loài người” (Lênin)[9]. Đối với người sử dụng tiếng Việt nói đầy đủ câu, trình bày mạch lạc chứng tỏ là người đã có trình độ văn hoá về mặt ngôn ngữ. Nói thành câu có nghĩa nói đúng, nói lưu loát, thông thạo, nói không trống không giúp cho học sinh có điều kiện sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập các bộ môn văn hoá, trong việc viết các văn bản, thư từ, hoặc trong giao tiếp; tăng cường khả năng ứng xử của học sinh trong các tình huống khác nhau, gây hứng thú, tính mạnh dạn, tự tin trong hoạt động nói trước đám đông,... Hoạt động nói trong Tập đọc là loại bài học thực hành kĩ năng. 
 Qua đó bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
2.2.Thực trạng về vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 2.2.1. Tình hình địa phương, nhà trường.
 Tuy vẫn còn nhiều khó khăn song những năm gần đây được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương và sự chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường nên cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục của trường Tiểu học Quảng Thái từng bước được nâng lên rõ rệt.
 Lớp do bản thân chủ nhiệm - Lớp 1B - có sĩ số là 32 học sinh, trong đó có 17 nữ, 15 nam. Đa số các em ở thôn 1, thôn 2 và thôn 3. Trong lớp các em đều chăm ngoan học giỏi, kính thầy, mến bạn, có tinh thần xây dựng bài, yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. 
 Lớp 1B là lớp có số học sinh đông nhất khối. Ở lứa tuổi này các em đang còn hiếu động, vui chơi là chính, chưa quen với các hoạt động, phương pháp học mới của chương trình lớp 1. Khả năng phân tán chú ý, nói tự do, nói cộc lốc , chưa đủ câu của các em còn cao, đặc biệt hầu hết các em còn nói nặng tiếng địa phương, nói chưa chuẩn tiếng Việt theo tiếng phổ thông. Hơn nữa đa số các em thường phải ở nhà với ông, bà đã già, cô, dì, chú, bác khi bố mẹ đi làm ăn xa nên ít được quan tâm, sát sao việc học. Trong lớp còn có rất nhiều học sinh thuộc hộ nghèo và cân nghèo. 
2.2.2.Những việc đã làm được:
 Năm học 2017–2018 để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng mục tiêu giáo dục tiểu học. Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đó xác định rõ vai trò và luôn chú trọng đến việc rèn kĩ năng đọc, giao tiếp cho học sinh, đặc biệt là kĩ năng nói thành câu, nói đúng chủ đề, nói theo tranh, theo chủ điểm. Một trong các nội dung nhà trường lựa chọn thực hiện đề án “ Giáo dục gắn với rèn kĩ năng sống” của UBND huyện Quảng Xương là “Giáo dục gắn với rèn kĩ năng giao tiếp” cho học sinh. Do đó, của việc rèn kĩ năng nói cho học sinh trong nhà trường nói chung và ở học sinh lớp 1 nói riêng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
 Ban giám hiệu nhà trường quán triệt tất cả các giáo viên và học sinh nhận thức đúng đắn vai trò của việc rèn kĩ năng giao tiếp chuẩn. Hằng ngày, hằng tuần nhà trường chỉ đạo giáo viên đó kiểm tra, nhận xét cách nói của học sinh trong từng giờ học, nhất là hoạt động luyện nói trong giờ tập đọc và trực tiếp kiểm tra theo dõi kết quả rèn luyện nói của học sinh, của tập thể lớp. Hằng kì, đều tổ chức kiểm tra đọc định kì cấp trường, lựa chọn học sinh giỏi cấp trường. Tổ chuyên môn tổ chức dạy đối chứng một số giờ để nhận xét rút kinh nghiệm. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục, của các cấp, các ban ngành, của địa phương và học sinh luôn nhận được sự quan tâm nhiệt tình của các thầy, cô giáo. Bên cạnh đó các em còn nhận được sự quan tâm, chỉ bảo của các anh chị phụ trách trong trường.
2.2.3. Những việc chưa làm được:
Về phía giáo viên: Qua tìm hiểu, có thể thấy rằng:Trong quá trình giảng dạy, xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của giáo viên, một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chưa bám sát vào mục tiêu, yêu cầu của từng bài, từng tiết dạy chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Các phương pháp mà giáo viên sử dụng trong việc giảng dạy phần luyện nói chưa khai thác hết, đồ dùng dạy học và việc sử dụng đồ dùng cho phần luyện nói còn nhiều hạn chế, nhiều giáo viên còn dạy “chay”,chưa coi những phương tiện trực quan là cần thiết cho việc luyện nói. Và vì thời lượng ít (10 phút/1 bài)nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em . Giáo viên không mấy quan tâm đến những học sinh hoàn thành chậm, ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
Về phía học sinh: Thực tế cho thấy học sinh Tiểu học giai đoạn đầu cấp luôn ham, thích học hỏi nhưng lại nhanh chán và chóng quên, ý thức học tập chưa đồng bộ ,khả năng nói của học sinh mới bước vào lớp 1 rất là yếu. Đó là do vốn từ của các em còn quá ít, do chưa có sự quan tâm chu đáo chặt chẽ của cha mẹ nên các em khó hoặc không diễn đạt được khi nói, khi giao tiếp; các em phát âm không chuẩn, phát âm không đúng; còn rụt rè trong giao tiếp, giao tiếp kém hoặc có thì nói năng cộc lốc, không biết cách diễn đạt hết ý nghĩa của mình.
 Không những nói chưa chưa đủ câu, phần lớn các em còn nói sai các phụ âm, nguyên âm và nói theo phương ngữ,chưa chuẩn tiếng phổ thông, kĩ năng nói chưa thông, chưa mạch lạc. Chẳng hạn, giáo viên hỏi: Hôm nay ai đưa em đi học? Học sinh trả lời: Ông ( bà), (mẹ),... hoặc hỏi : Bố em làm nghề gì?. Học sinh trả lời: đi bén hèng ( đi bán hàng); các bạn, nói là các bạng;. Tốc độ nói còn chậm, ê a, ngắc ngứ, nói quá nhanh hoặc quá chậmcác em còn rụt rè, chưa mạnh dạn khi luyện nói.
 Đa số các em chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nếu yêu cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không ? Còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho chính mình.
 Ví dụ: Giáo viên yêu cầu: Em hãy nói một câu về một cây hoa mà em biết?.
HS A: “Nhà em có một cây hoa hồng rất đẹp.
HS B cũng bắt chước nói theo mẫu câu đó:“Nhà em có một cây hoa lan rất đẹp.”
 Về phía phụ huynh học sinh: Phần đông phụ huynh sống bằng nghề nông, ngư, kinh tế còn khó khăn phải vất vả lo cái ăn, cái mặc, đi làm ăn xa, thường xuyên vắng.Trường Tiểu học Quảng Thái lại thuộc xã ven biển, nằm xa trung tâm nên học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. Ít có đều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ nên ngôn ngữ diễn đạt phần nào còn hạn chế. Phụ huynh lại chưa dành nhiều thời gian ngồi học, trò chuyện hoặc chở con đi chơi, giải trí trong những dịp cuối tuần để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người..; học sinh thiếu đi sự đôn đốc của cha mẹ, hơn nữa nhiều phụ huynh lại không chú tâm đến cách nói, cách diễn đạt thành câu dẫn đến con mình nói lưu loát hay ấp úng cũng không hướng dẫn được. Hằng ngày các em sống và tiếp xúc với ngôn ngữ địa phương vốn có, tiếng mẹ đẻ, các em có thói quen phát âm riêng, lệch chuẩn so với hệ thống. Dấu ấn của phương ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến chính âm.
 Ví dụ: “sao vậy” các em nói thành “ sao nẩy”, “cái gì vậy?” nói thành “ cái nẩy?”, “Mẹ em đi bán hàng” nói thành: “Mẹ em đi bén hèng”. “Các bác phụ huynh” nói thành: “Céc béc phụ huynh”... Và phần lớn lỗi phát âm này là do ông, bà, bố mẹ và những người bạn xung quanh em đều phát âm sai,các em tiếp xúc, trò chuyện, giao tiếp hằng ngày, lâu dần thành thói quen khó sửa, khiến các em bị ảnh hưởng nhiều và gặp khó khăn trong quá trình luyện nói ở lớp,ở trường. Những yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng chất lượng nói và giao tiếp thông qua các giờ học, nhất là trong giờ học Tập đọc theo đúng yêu cầu: nói rành rọt, đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, lôgic.
2.2.4. Kết quả khảo sát.
Bảng kết quả khảo sát 1:
Lớp
Sĩ số
học sinh
Số HS nói mạch lạc, diễn đạt tốt
Số học sinh nói đủ ý
Số học sinh nói chưa đủ ý
Số HS nhút nhát, ít phát biểu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1B
32
4
12.5
6
18.7
13
40.7
9
28.1
 Qua quá trình dạy học và thực nghiệm giờ dạy Học vần với bài 29: “ia” [1]– chủ đề luyện nói là Chia quà Kết quả khảo sát của học sinh lớp 1B chưa cao. VD: Giáo viên hỏi: “Trong bức tranh bà đang làm gì?” Một số HS trả lời: “chia quà”, “Mỗi khi mẹ hoặc bà đi chợ về các con thường được chia quà gì?” Học sinh:” bánh ạ”, “quả ạ”, “kẹo ạ”... Rất ít học sinh trả lời đủ ý đủ câu. Ngoài ra tôi còn dự giờ thăm lớp, tham khảo ở giáo viên đứng lớp ở các lớp 1 khác theo hướng dạy chung mà các đồng nghiệp đó tham khảo trong sách giáo viên và thiết kế Tiếng việt 1 tập 2, kết quả đạt được của các lớp là:
Bảng kết quả khảo sát 2:
Lớp
Sĩ số
học sinh
Số học sinh nói mạch lạc, diễn đạt tốt
Số học sinh nói đủ ý
Số học sinh nói chưa đủ ý
Số học sinh nhút nhát, ít phát biểu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1A
28
4
14.3
6
21.5
9
32.1
9
32.1
1C
31
4
12.9
8
25.8
12
38.7
7
22.6
1D
27
3
11.1
7
25.9
10
37.1
7
25.9
1E
31
4
12.9
6
19.4
13
41.9
8
25.8
 Cũng như chất lượng lớp tôi chủ nhiệm. Qua việc khảo sát tôi thấy tình trạng học sinh nói cộc lốc, nói chưa đủ câu và nói chưa chuẩn tiếng Việt theo tiếng phổ thông là tình trạng chung của đa số các em học sinh trong khối lớp 1 của trường .
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Rèn kĩ năng nói qua môn Tiếng Việt
 Xác định rõ Nói là một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) quan trọng của môn Tiếng Việt vì vậy hoạt động luyện nói được tôi quan tâm đúng mức. Trong giờ dạy tiếng Việt lớp một, tôi phân chia thời lượng rõ ràng phù hợp với các hoạt động của bài để đảm bảo nội dung kiến thức được truyền đạt đúng, đủ và vừa sức đối với học sinh. Trong đó thời lượng cho hoạt động luyện nói là thường từ 10 - 12 phút. Đối với việc rèn kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi, HS được rèn hỏi đáp theo chủ đề của bài học, trả lời câu hỏi về bản thân, người thân, trả lời câu hỏi theo tranh, trả lời câu hỏi về bài đọc, trả lời câu hỏi về bài nghe,... Đối với kĩ năng thuật việc, kể chuyện, HS được luyện kể từng đoạn câu chuyện đã nghe kể (có hình ảnh minh hoạ), kể từng đoạn, kể toàn bộ câu chuyện (đã đọc có tranh/có gợi ý), kể chuyện phân vai (có tranh), tự tìm đọc truyện, tự tìm câu chuyện đó nghe kể rồi kể lại, kể lại câu chuyện /hoạt động đó tham gia hoặc đó chứng kiến. 
 Thông qua những nhiệm vụ học tập cụ thể, các bài Học vần luôn tạo điều kiện để học sinh tham gia vào các tình huống nói năng gần gũi với hoạt động giao tiếp thường ngày của các em. Ví dụ: Luyện nói theo chủ đề “ Chia quà”(Bài 29 : ia - Học vần lớp 1),“Bà cháu” ( Bài 39: au, âu - Học vần lớp 1); “ Bé tự giới thiệu”(Bài 41: iêu, yêu - Học vần lớp 1);....; HS có thể tập nghe nói gắn với những chủ đề thường gặp trong cuộc sống hay tập nghe và kể ở mức độ đơn giản những câu chuyện ngắn gọn, có tình tiết không phức tạp, dễ nhớ. Cũng nhờ vậy vốn từ của các em được mở rộng và nhiều mẫu câu được hình thành tạo điều kiện cho các em phát triển kĩ năng đọc - viết, nghe - nói ở giai đoạn sau.
 Khi tiến hành soạn giáo án cho hoạt động luyện nói tôi thiết kế hệ thống câu hỏi xoay quanh chủ đề và nội dung luyện nói, cấu trúc câu hỏi từ dễ đến khó phù hợp với năng lực học tập của từng đối tượng học sinh trong lớp.
Ví dụ : Luyện nói theo chủ đề “ Bé tự giới thiệu” [1] : Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý lần lượt: Con tên gì? Năm nay con bao nhiêu tuổi? Con là học sinh lớp nào? Trường gì? Sở thích của con là gì? Con ước mơ sau này lớn lên mình sẽ làm gì?.....
 Khi thực hiện hoạt động này, đối với học sinh hoàn thành tốt, nói lưu loát, rành rọt thì giáo viên cho các em nói 3 đến 4 câu, đối với đối tượng nói chưa đủ ý, nói ê a, ngắc ngứ, nhút nhát, ít nói giáo viên động viên các em nói 1 - 2 câu theo các câu hỏi gợi ý[9]. Sau mỗi học sinh nói, học sinh khác nhận xét, Giáo viên nhận xét sự tiến bộ của học sinh và cho lớp tuyên dương bạn.
2.3.1.1. Luyện nói theo chủ điểm.
 Cuối mỗi bài học vần hoặc một số tiết tập đọc đều có hoạt động luyện nói theo chủ đề. Giáo viên có thể đặt câu hỏi về tranh chủ đề, học sinh trả lời; sau đó hướng dẫn yêu cầu học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Luyện nói trong nhóm (3 - 5ph).
 GV tổ chức cho học sinh nói cho nhau nghe trong nhóm bàn (Học sinh tự điều khiển) Nhằm giúp các em tự giác, tích cực, tự nhiên trong học tập, giúp học sinh rèn luyện thói quen mạnh dạn trước đông người, năng động, hào hứng học tập.
 Giáo viên theo dõi các nhóm, quan tâm thường xuyên giúp đỡ các nhóm để các nhóm hoạt động có hiệu quả.
 Giáo viên nhắc nhở các em trong quá trình luyện nói:
- Bạn nào cũng được nói. Nói vừa đủ nghe trong bàn, nhóm của mình.
- Khi bạn nói các thành viên còn lại trong nhóm theo dõi, nhận xét lỗi sai của bạn.
- Bạn nói rành rọt kèm bạn nói ê a, lắp bắp, nói chưa đủ ý, đủ câu hoặc nói chưa chuẩn tiếng phổ thông.
- Giáo viên trực tiếp kèm thêm học sinh chưa hoàn thành .
Bước 2: Thi nói giữa các nhóm với tinh thần “ Học mà chơi, chơi mà học” 
 Đây là một hình thức học sinh trình bày kết quả luyện nói, thi nói tạo sự hào hứng, vui tươi cho học sinh, là hoạt động đa dạng và phong phú về hình thức tổ chức.
 Đại diện nhóm thi nói: Mỗi nhóm cử đại diện một bạn nói. 
 Trong khi các nhóm luyện nói, nhóm khác cùng giáo viên theo dõi nhận xét, bổ sung, tuyên dương kịp thời những cá nhân hoặc nhóm nói đúng, nói tốt. 
 Lưu ý: Việc đánh giá kết quả đọc giáo viên cần đảm bảo tính động viên, khích lệ, coi trọng sự tiến bộ của học sinh. Chọn học sinh của n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_luyen_noi_cho_hoc_sinh_lop.doc