SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung

SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung

Mục tiêu của phần Địa lí (trong môn Lịch Sử và Địa lí lớp 5) nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng địa lí, năng lực tự học và góp phần bồi dưỡng nhân cách cho học sinh.

Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau.

Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp dạy học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó là quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất.

 Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học tập phân môn Địa lí là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh theo phương pháp mới, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học. Học tập tích cực học sinh là chủ thể của hoạt động, chỉ có hoạt động mới có thể tự phát hiện, tự chiếm lĩnh, tự giải quyết vấn đề. Bằng hoạt động học tập tích cực, chủ động, mỗi học sinh tự hình thành nhân cách của mình. Học là hoạt động thay đổi cách nghĩ đến cách làm, cách sống. Nói về vai trò hoạt động học tập, người Ấn Độ có câu: “Tôi nghe tôi quên, tôi nhìn tôi nhớ, tôi làm tôi hiểu”. Bằng những nghiên cứu về tâm lí học, người ta đã tổng kết được tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học như sau:

20% qua những gì mà ta nghe được.

30% qua những gì mà ta nhìn được.

50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được.

80% qua những gì mà ta nói được.

90 % qua những gì mà ta nói và làm được.

Như vậy rõ ràng là học sinh tự chủ tham gia tích cực vào quá trình học thì kết quả đạt được sẽ cao hơn.

 

doc 22 trang thuychi01 24861
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
 TRANG
A.MỞ ĐẦU	
 I. Lí do chọn đề tài 
 II. Mục đích nghiên cứu 
 III. Đối tượng nghiên cứu.
 IV. Phương pháp nghiên cứu
 B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 I. Cơ sở lí luận.
 II. Thực trạng của vấn đề. 
 III.Giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện.
 1.Giáo dục nhận thức cho học sinh.
 2. Hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học.
 3.phát huy tính tích cực qua việc tìm hiểu, khai thác nội dung bài.
 4.Xác định phương pháp dạy học địa lí theo tinh thần dạy học tích cực.
 5. Hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực .
 6 . Kết hợp với trò chơi học tập.
 IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
 1.Kết luận.
 2.Kiến nghị	
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
 2
3
3
 3
3- 4
4- 6
6-7
7-11
11-14 
14-15
15 - 19
19-20
20
21
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu của phần Địa lí (trong môn Lịch Sử và Địa lí lớp 5) nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng địa lí, năng lực tự học và góp phần bồi dưỡng nhân cách cho học sinh. 
Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau.
Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp dạy học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó là quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất. 
 Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học tập phân môn Địa lí là việc làm cần thiết và hết sức quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh theo phương pháp mới, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học. Học tập tích cực học sinh là chủ thể của hoạt động, chỉ có hoạt động mới có thể tự phát hiện, tự chiếm lĩnh, tự giải quyết vấn đề. Bằng hoạt động học tập tích cực, chủ động, mỗi học sinh tự hình thành nhân cách của mình. Học là hoạt động thay đổi cách nghĩ đến cách làm, cách sống. Nói về vai trò hoạt động học tập, người Ấn Độ có câu: “Tôi nghe tôi quên, tôi nhìn tôi nhớ, tôi làm tôi hiểu”. Bằng những nghiên cứu về tâm lí học, người ta đã tổng kết được tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học như sau:
20% qua những gì mà ta nghe được.
30% qua những gì mà ta nhìn được.
50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được.
80% qua những gì mà ta nói được.
90 % qua những gì mà ta nói và làm được.
Như vậy rõ ràng là học sinh tự chủ tham gia tích cực vào quá trình học thì kết quả đạt được sẽ cao hơn.
 Năm học 2015 – 2016 là năm học thứ hai thực hiện đánh giá học sinh theo thông tư 30/2014/TT-BGD&ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014. Tiếp tục thực hiện chỉ thị 03/CT-TW của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” cùng với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực’’ và phong trào thi đua“Dạy tốt - Học tốt’’. 
 Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy là xây dựng ý thức tự học, tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh được quan tâm hơn lúc nào hết. Việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo được đặt ra cho tất cả các lớp học, bậc học, đặc biệt là bậc tiểu học vì đây là bậc học nền tảng tạo tiền đề cho các bậc học sau. Do đó việc dạy cho học sinh cách học tự giác, tích cực để đem lại hiệu quả cao ngay từ bậc tiểu học luôn là vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên. Nhưng hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết vấn đề này. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung” để viết sáng kiến kinh nghiệm .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
- Nghiên cứu nội dung và một số biện pháp dạy phân môn địa lí lớp 5 giúp giáo viên nắm chắc chương trình phân môn địa lí ở tiểu học và sử dụng phương pháp dạy học cho phù hợp làm cho chất lượng phân môn địa lí của học sinh được nâng cao bền vững.
- Một số hoạt động dạy học phân môn địa lí nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung phù hợp với học sinh nông thôn, sát với thực tế nhà trường.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Với đề tài " Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong hoc tập phân môn địa lí lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
- Tôi tập trung nghiên cứu đề tài và cùng với các em học sinh học 5B trường Tiểu học Nga Trung về:
+ Chương trình môn địa lí lớp 5.
+ Tình trạng học phân môn địa lí của học sinh lớp 5
- Nghiên cứu tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức.
- Nghiên cứu sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 5 ( Phần phân môn Địa lí)
- Đồ dùng dạy – học: Bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh ảnh
- Một số tài liệu khác có liên quan.
 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích 
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. 
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin .
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 
 Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa lý. Giáo viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp học sinh khám phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất. Môi trường sống của con người, về những hoạt động của loài người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, địa lý là một trong những bộ môn quan trọng đòi hỏi mỗi người phải có kiến thức am hiểu về nó. Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, trong những giờ lên lớp tôi luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách nhiệm. Tôi luôn đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt dộng và hợp tác học sinh luôn được người dạy theo sát giúp đỡ nên tích cực tự giác thể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Kết quả là học sinh lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới, bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê và yêu mến môn học hơn nhiều lần những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên. 
 Để đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả, giảng dạy bất cứ môn gì giáo viên cũng cần phải có sự hỗ trợ của dụng cụ dạy học hay còn gọi là thiết bị dạy học, nhất là ở môn địa lý cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lý Kết hợp các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh những tri thức một cách vững chắc để hiểu biết về những cơ sở khoa học, những kỹ năng vận dụng các tri thức đó vào cuộc sống đồng thời giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính tích cực độc lập cho học sinh. 
 Đặc điểm môn địa lý lớp 5 là giúp các em biết được các sự vật hiện tượng và mối quan hệ địa lý ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. SGK lớp 5 được biên soạn phù hợp với tâm lý nhận thức của học sinh tiểu học và không quá tải về kiến thức. Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và giúp học sinh tự rèn tại lớp, tại nhà. Nhằm giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học sinh tính tự giác học tập.
 Học sinh đến với phân môn Địa lý là học sinh hình thành kỹ năng quan sát sự vật, hiện tượng, thu nhập tìm kiếm tư liệu địa lý từ sách giáo khoa, trong cuộc sống gần gũi học sinh Học sinh biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, đặt câu hỏi với bạn bè, nhóm, với thầy cô và biết thông tin để giải đáp. Biết nhận đúng các sự vật hiện tượng địa lý. Học sinh biết trình bày kết quả học tập qua nhiều hình thức: lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, bảng thống kê Để từ những giờ học trên lớp, các em biết đem về vận dụng vào cuộc sống phong phú. Để từ đó các em hình thành thái độ ham học hỏi, tìm hiểu để biết về quê hương đất nước, môi trường xung quanh. Từ đó giáo dục cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu quê hương đất nước và khát khao được học để trở thành con người có ích cho gia đình, xã hội. 
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
vNhững thuận lợi và khó khăn khi dạy môn Địa lí lớp 5:
1. Thuận lợi: 
 - Về sách giáo khoa: được trang bị đầy đủ cho học sinh. Các tranh ảnh, lược đồ, bản đồ ở sách giáo khoa đẹp, rõ ràng, chính xác. Các câu hỏi hoặc các yêu cầu hoạt động được in nghiêng ở giữa bài gợi ý cho giáo viên tổ chức các hoạt động, khai thác thông tin được dễ dàng. Câu hỏi cuối bài giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện mục tiêu bài và củng cố kiến thức. Phần tóm tắt trọng tâm bài được đóng khung rất rõ. Sách giáo viên có phần bổ sung thông tin, giúp giáo viên mở rộng kiến thức. Về chương trình: Cấu trúc nội dung theo từng chủ đề, từng bài cụ thể. Mục tiêu, nội dung chương trình nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Mấy năm gần đây, nhà trường quan tâm hơn rất nhiều việc mua sắm đồ dùng dạy học, trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc dạy học: tranh ảnh, quả địa cầu. Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo sát sao việc dạy và học. Nhà trường, công đoàn luôn động viên giáo viên tìm tòi những sáng kiến dạy học tích cực nhất là những môn mà nhiều người vẫn coi là môn phụ nhưng tầm quan trọng của chúng là không nhỏ.
- Giáo viên: bằng tinh thần yêu nghề, mến trẻ không ngừng trau dồi kiến thức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đồng nghiệp tích cực dự giờ, góp ý thẳng thắn với nhau giúp nhau cùng tiến bộ, vững vàng hơn trong giảng dạy và có nhiều sáng kiến, cách dạy học hay, hình thức dạy học phong phú phù hợp từng bài, phù hợp từng đối tượng học sinh.
2. Khó khăn:
 Qua việc dự giờ, tìm hiểu các giờ dạy Địa lí của các bạn đồng nghiệp tôi nhận thấy: Hiện nay nhiều giáo viên Tiểu học khi dạy giờ Địa lí đã cố gắng sử dụng các thiết bị dạy học Địa lí (bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, bảng số liệu,...) để minh họa cho lời giảng của mình mà ít chú ý đến việc cho học sinh khai thác kiến thức từ các nguồn này. Do vậy mà cách dạy học tích cực hướng tập trung vào học sinh chưa được thực hiện một cách triệt để. 
 Một số giáo viên đã cố gắng phát huy tính tích cực tự giác của học sinh làm cho giờ Địa lí được sinh động bằng cách tạo không khí học tập sôi nổi như tổ chức để học sinh thảo luận, làm việc trong phiếu, tổ chức trò chơi học tập... nhưng số tiết học kiểu này còn quá ít vì nó chỉ được thực hiện trong những giờ thao giảng, thanh tra hoặc thi giáo viên giỏi. Vì vậy mà vấn đề kĩ năng thực hành địa lí của học sinh không được thực hiện thường xuyên. 
Thiết bị, đồ dùng dành cho phân môn Địa lí được cấp phát, nhà trường mua bổ sung xong đã cũ, chưa được thay thế hết nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Về phía phụ huynh: do điều kiên kinh tế của nhân dân Nga Trung còn gặp nhiều khó khăn, trình độ hiểu biết còn có hạn nên việc chăm lo đến chất lượng học tập của con em chưa tốt.
Về phía học sinh: các em chưa có sự chuẩn bị tốt cho các giờ học địa lí, chủ yếu dựa vào kênh chữ để phát biểu mà ít đề cập đến kênh hình, biểu đồ, lược đồ và ít rèn luyện kỹ năng địa lí. 
3.Nguyên nhân:
- Về giáo viên: một số giáo viên chưa tìm hiểu, cập nhật thông tin kịp thời về các yếu tố tự nhiên, về con người, về cuộc sống xung quanh để hỗ trợ cho môn học. Do yếu tố khách quan nên giáo viên chưa có điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh để kết hợp với học tập. Một số ít giáo viên trong quá trình dạy phân môn địa lí chưa chú ý đến việc xâu chuỗi mỗi quan hệ giữa các đối tượng địa lí để học sinh nắm bài một cách sâu sắc.
- Về phía học sinh: các em chưa chú trọng môn học này, chủ yếu còn học thuộc nhiều hơn học hiểu để mở rộng vốn sống. Đa số học sinh lớp tôi chủ nhiệm đều là con nhà nông, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện tiếp xúc, học hỏi các hoạt động giáo dục sinh hoạt ngoại khóa như tham quan, du lịch
- Về phía phụ huynh: Nhiều phụ huynh vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của phân môn Địa lí, vẫn còn tư tưởng coi là môn học phụ, chỉ mong con giỏi Toán và Tiếng Việt là được rồi.
- Trong điều kiện tài chính nhà trường cho phép, nhà trường đã mua sắm các đồ dùng dạy học nhưng vẫn còn thiếu chủng loại hoặc thiếu số lượng ( 2lớp trong cùng khối sử dụng chung một bộ đồ dùng).
Xuất phát từ những tình hình thực tế của lớp và những thuận lợi, khó khăn nói trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ làm sao tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất để giúp các em học tốt môn học này bằng cách học tự giác, tích cực và có niềm hứng thú say mê môn học. Làm được điều đó chính là giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về Địa lí, có kĩ năng địa lí và năng lực tự học. Các em có những nhận thức đúng đắn về cuộc sống thế giới xung quanh mình, các em thêm yêu quê hương, đất nước. Từ nhận thức đó, tôi đã suy nghĩ, chọn và nghiên cứu đề tài “Mét số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phân môn Địa lí lớp 5 trường Tiểu học Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
 Để các biện pháp đưa ra sát với thực tế và có tính khả thi, tôi đã tiến hành điều tra thực trạng, khảo sát chất lượng đầu năm học 2015– 2016 ở lớp 5B để tìm hiểu nguyên nhân:
Kết quả khảo sát :
Tổng số HS
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
25em
9 em(36%)
16em(64%)
*Nguyên nhân : 
- Học sinh chưa có phương pháp học môn Địa lí và chưa thực sự yêu thích môn học.
- Học sinh chưa biết cách khai thác nội dung bài qua các thiết bị học tập như bản đồ, lược đồ, quả địa cầu, tranh vẽ, ảnh chụp,
- Học sinh chưa có kĩ năng phân tích bảng số liệu, biểu đồ.
- Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà (tìm hiểu bài, chuẩn bị đồ dùng học tập, tranh ảnh ...)
- Nhiều em còn xem nhẹ môn học này vì cho đây là môn học phụ (môn học bài) nên ít đầu tư nghiên cứu mà chỉ đầu tư vào 2 môn Toán, Tiếng Việt.
III. CÁC Gi¶i ph¸p vµ biÖn ph¸p tæ chøc thùc hiÖn ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 1. Giáo dục nhận thức cho học sinh:
Phân môn Địa lí luôn gắn liền với thiên nhiên, với đất nước và đời sống. Việc học tốt phân môn Địa lí sẽ giúp các em tìm hiểu tự nhiên, con người và tăng thêm tình yêu quê hương, yêu đất nước để bước vào cuộc sống một cách tốt đẹp. Từ đó các em có ý thức học tốt phân môn Địa lí để các em nắm được những kiến thức về Địa lí, có hiểu biết sâu sắc hơn về mảnh đất các em đang sinh sống. Các em sẽ biết yêu quý tự nhiên, biết cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý và đúng đắn nhất để phục vụ cho lợi ích của con người dài lâu.
Trong các giờ dạy Địa lí, giáo viên cần lồng ghép giáo dục kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ môi trường để giáo dục các em ý thức thực hiện bổn phận của bản thân đối với đất nước.
Ví dụ: khi dạy bài Nông nghiệp 
Giáo viên cho học sinh đọc thầm sách giáo khoa để biết Nông nghiệp gồm có 2 ngành chính đó là: Trồng trọt và chăn nuôi.
Học sinh kể tên một số trang trại mà các em biết. Học sinh có thể kể những việc làm để giảm thiểu ô nhiễm do chất thải trong chăn nuôi gây ra.
Qua học tập Địa lí, các em hiểu được trách nhiệm bảo vệ tự nhiên là của tất cả mọi người. 
 2. Hướng dẫn sử dụng tích cực các thiết bị dạy học:
 Các thiết bị dạy học Địa lí hiện nay khá phong phú, bao gồm tranh, ảnh, mô hình, quả địa cầu, bản đồ, băng đĩa, phim giáo khoa,Khi sử dụng thiết bị dạy học giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học để lựa chọn thiết bị cho phù hợp. Tránh quá tải về thiết bị trong một giờ học. 
 Sử dụng thiết bị như là một nguồn cung cấp kiến thức chứ không chỉ để minh họa cho bài giảng. Khi sử dụng giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu: sử dụng thiết bị nhằm mục đích gì ? Cần tìm những nội dung gì ? và cách thức sử dụng.
 2.1. Đối với bản đồ, lược đồ:
 Để giúp học sinh có khả năng làm việc độc lập, tích cực với bản đồ, lược đồ, trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú trọng rèn luyện một số kĩ năng sử dụng bản đồ.
a. Rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ.
Ở lớp 4, học sinh đã biết xác định các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sang lớp 5, học sinh cần xác định thêm bốn hướng phụ nữa là Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Giáo viên cho học sinh thực hành nhiều lần để nhớ được: trên bản đồ phía trên là hướng Bắc, phía dưới là hướng Nam, bên phải là hướng Đông, bên trái là hướng Tây. Ngoài ra, giáo viên còn giúp học sinh xác định vị trí của khu vực bán cầu Bắc, bán cầu Nam và đường xích đạo. Chính nhờ việc xác định được các hướng và vị trí này sẽ giúp các em nắm được vị trí của các nước, các châu lục thể hiện trên bản đồ, lược đồ một cách dễ dàng.
Ví dụ : Khi dạy bài: “Việt Nam – Đất nước chúng ta” địa lí lớp 5, tôi yêu cầu học sinh quan sát lược đồ Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á để xác định:
- Vị trí của nước ta.
- Phần đất liền của nước ta giáp những nước nào?
- Biển bao bọc phía nào của đất nước ta?
Sau khi quan sát học sinh nêu được:
- Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu. Phần đất liền nước ta giáp với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. 
- Biển bao bọc phía Đông, Nam và Tây Nam của phần đất liền.
b. Rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ:
Đọc bản đồ không phải là đọc các chữ ghi trên bản đồ mà là một quá trình tìm kiếm kiến thức địa lí chứa đựng trong các kí hiệu trên bản đồ, ở các mức độ cao, thấp khác nhau. 
Đọc bản đồ có 3 mức độ:
Mức độ 1: Học sinh chỉ cần dựa vào kí hiệu ở bảng chú giải, chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ( Ví dụ: đây là Hà Nội, kia là Hải Phòng; đây là sông Hồng, kia là sông Đà,)
Ví dụ : Đọc bản đồ Bản đồ Tự nhiên Việt Nam học sinh nắm được bản đồ thể hiện các sự vật, hiện tượng tự nhiên của đất nước Việt Nam như lãnh thổ, sông, núi, đồng bằng, biển, đảo ...
 a, Có kĩ năng đọc bản đồ học sinh sẽ nắm vững các kí hiệu thể hiện trên bản đồ, ví dụ như :
 Biên giới o Thành phố, thị xã	¤ Thủ đô
	Dãy núi ¬ Nhà máy thủy điện 
Các kí hiệu về khoáng sản như :
 n Than đá Thiếc	 Sắt  
b, Bản đồ tự nhiên giúp cho học sinh nắm thêm các kí hiệu về màu sắc:
Ví dụ: màu xanh lá mạ chỉ đồng bằng, màu xanh nước biển đậm nhạt chỉ độ sâu của biển, màu đỏ đậm nhạt chỉ độ cao của cao nguyên, đồi núi.
Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ để tìm ra đặc điểm của đối tượng địa lí.(Ví dụ: Vị trí dãy núi ở đâu ? Núi cao hay thấp ? Núi có hướng gì?).
Quan sát lược đồ hình 1, SGK trang 69, học sinh sẽ nêu được những dãy núi có hướng Tây Bắc- §ông Nam, những dãy núi có hình cánh cung.
Mức độ 3: Học sinh vận dụng các kiến thức đã có, xác lập các mối quan hệ địa lí để rút ra những điều mà trên bản đồ không trực tiếp thể hiện. 
Ví dụ: Học bài “Sông ngòi”. Em hãy cho biết vì sao sông ngòi ở miền Trung thường ngắn và dốc? (do miền Trung hẹp ngang, địa hình có độ dốc lớn, núi cao ở phía tây đồng bằng nhỏ hẹp ở phía đông nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc.)
	Gi¸o viên mở rộng kiến thức: Địa hình phần đất liền của nước ta với ¾ diện tích là đồi núi và chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng Nam Bộ và dải đồng bằng duyên hải miền Trung hẹp ngang, độ dốc lớn nên sông ngòi miền Trung ngắn và dốc. (Học sinh kết hợp chỉ bản đồ)
 c. Rèn luyện kĩ năng tìm và chỉ vị trí địa lí của các đối tượng trên bản đồ:
 Để rèn các kĩ năng này giáo viên cần đưa ra các bài tập cụ thể yêu cầu học sinh dựa vào bản đồ để xác định vị trí của một đối tượng nào đó.
Ví dụ: Dựa vào Lược đồ công nghiệp Việt Nam (H.3,SGK trang 94), em hãy cho biết các ngành công nghiệp khai thác dầu, than, a-pa-tít có ở những đâu ?
Học sinh đã nắm vững các kí hiệu khoáng sản nên tìm ra nhanh chóng: Ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ có ở biển đông (gồm các mỏ: mỏ than,

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc_sinh_tr.doc