SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2

SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2

Luật Giáo dục (2005) điều 28.2 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.

Trong việc ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi việc phát huy năng lực tự học rất quan trọng, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn học sinh tự học. Sau những năm ôn luyện đội tuyển, tôi thấy học sinh thường học theo lối học thụ động, chỉ biết học thuộc lòng mà không biết đặt vấn đề, giáo viên cung cấp được nội dung nào thì học sinh tiếp thu ít vận động trong tư duy, suy nghĩ. Do vậy, cần tìm ra những biện pháp thích hợp để phát huy được năng lực tự học cho học sinh và giáo viên cũng nhàn hơn trong dạy học.

Xuất phát từ tình hình trên, để có thể phát huy hết năng lực tự học của học sinh và đạt được kết quả cao trong học tập và ôn luyện HS mũi nhọn đã thúc đẩy tôi suy nghĩ và tìm tòi “một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2”. Đó là lí do để tôi lựa chọn đề tài này

 

doc 23 trang thuychi01 5761
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
 TRƯỜNG THPT NHƯ THANH 2
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC 
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH TRONG ÔN LUYỆN 
HỌC SINH MŨI NHỌN MÔN LỊCH SỬ 
Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH 2
 Họ và tên giáo viên: Nguyễn Thị Thủy
 Chức vụ : Giáo viên
 Môn : Lịch sử
 THANH HÓA, THÁNG 5/2019
 MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1
Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1
1.5 Điểm mới của đề tài
2
2
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3
2. 2.1. Thực trạng chung
3
2.2.2. Thực trạng ở trường THPT Như Thanh 2
3
2.2.2.1. Về học sinh
3
2.2.2.2. Về giáo viên
4
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1 Tìm hiểu về năng lực tự học
4
2.3.1.1. Khái niệm
4
2.3.1.2. Các hình thức của hoạt động tự học
5
2.3.2. Biện pháp thực hiện và ví dụ minh họa
5
2.4. Hiệu quả của SKKN
17
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục
17
2.4.2. Đối với bộ môn lịch sử
17
3
Kết luận và kiến nghị
17
3.1. Kết luận
17
3.2. Những kiến nghị
17
3.3. Rút kinh nghiệm
18
 1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Luật Giáo dục (2005) điều 28.2 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong việc ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi việc phát huy năng lực tự học rất quan trọng, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn học sinh tự học. Sau những năm ôn luyện đội tuyển, tôi thấy học sinh thường học theo lối học thụ động, chỉ biết học thuộc lòng mà không biết đặt vấn đề, giáo viên cung cấp được nội dung nào thì học sinh tiếp thu ít vận động trong tư duy, suy nghĩ. Do vậy, cần tìm ra những biện pháp thích hợp để phát huy được năng lực tự học cho học sinh và giáo viên cũng nhàn hơn trong dạy học.
Xuất phát từ tình hình trên, để có thể phát huy hết năng lực tự học của học sinh và đạt được kết quả cao trong học tập và ôn luyện HS mũi nhọn đã thúc đẩy tôi suy nghĩ và tìm tòi “một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện học sinh mũi nhọn môn lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2”. Đó là lí do để tôi lựa chọn đề tài này
1.2. Mục đích nghiên cứu.
 + Hướng dẫn học sinh làm quen và thuần thục với các phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra từ đó có ý thức trong làm việc cá nhân cũng như nhóm, tổ để phát huy năng lực tự học.
+ Từ việc học sinh tiếp cận được phương pháp tự học học sinh sẽ phát triển khả năng tư duy, học hỏi và cạnh tranh nhau trong quá trình học tập.
+ Giúp cho giáo viên đổi mới được phương pháp dạy hoc tích cực là lấy học sinh làm trung tâm, chống HS học thụ động.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Giáo viên trong việc giảng dạy học sinh giỏi lớp 11.
- Học sinh ôn luyện học sinh giỏi lớp 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Từ kinh nghiệm thực tế trong việc ôn luyện học sinh giỏi ở trường THPT Như Thanh 2 tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát kết quả đạt được từ thực tiễn ôn luyện học sinh giỏi trong năm qua.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo ý kiến của bạn bè, đồng nghiệp.
+ Phương pháp thử nghiệm.
+ Phương pháp điều tra.
+ Các phương pháp có liên quan đến lí luận dạy học đổi mới.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Đề tài có thể sử dụng hoặc làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy lịch sử nói chung và ôn luyện học sinh giỏi nói riêng.
- Khả năng áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong ôn luyện học sinh giỏi từ đó nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn cho nhà trường.
- Đề tài có sức lan tỏa lớn và có thể áp dụng rộng rãi không chỉ dành cho môn lịch sử mà có thể áp dụng cho các môn học khác.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong thời gian gần đây ngành giáo dục đã nói nhiều đến việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục như Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh ... Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lí giáo dục”.
Do vậy yêu cầu đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học luôn được ngành chú trọng. Đặc biệt từ năm 2010 đến nay Sở giáo dục Thanh Hóa đã tổ chức rất nhiều đợt tập huấn về đổi mới các kĩ thuật dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học mới tạo ra sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Một trong những yêu cầu của đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học là dạy học chú trọng đến việc kết hợp các kĩ thuật dạy học hiện đại với sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học được trang bị hoặc do GV tự làm, đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
Để đảm bảo những yêu cầu trên thì việc áp dụng các kĩ thuật dạy học hiện đại sẽ đảm bảo sự tin cậy cao về mặt khoa học trong việc học tập đặc biệt là trong ôn thi học sinh giỏi. 
Từ năm học 2017 - 2018 nghành giáo dục Thanh hóa tổ chức thi học sinh giỏi lớp 11. Do vậy đòi hỏi người dạy phải vận dụng tổng hợp các biện pháp dạy học tích cực một cách khéo léo, linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh, từng thời điểm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung
Trong hai năm học vừa qua Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa tổ chức thi học sinh giỏi lớp 11, do vậy đã gây khá nhiều lúng túng cho giáo viên trong ôn luyện, từ trước đến nay chủ yếu thi chương trình 12. Đây là thời điểm mà ngành nói chung và giáo viên ôn luyện học sinh giỏi vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm. Thực trạng trên thiết nghĩ bản thân là người trực tiếp ôn luyện nên đòi hỏi phải không ngừng học hỏi, không ngừng đổi mới. Mặt khác nhiều giáo viên không quan tâm đến việc đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học nên ngại ôn đội tuyển và đùn đẩy nhau, trốn tránh trách nhiệm.
2.2.2. Thực trạng ở trường THPT như Thanh 2
2.2.2.1. Về học sinh 
Trường THPT Như Thanh 2 là ngôi trường trước đây đóng ở địa bàn Thị trấn Như Thanh, nhưng từ năm 2008 đến nay trường đã chuyển về địa bàn thôn Hợp Nhất - xã Thanh Tân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hóa. Đây là một xã thuộc diện đặc biệt khó khăn (135) của tỉnh. Học sinh ở đây có tới hơn 60% hộ nghèo, hơn 70% là con em dân tộc, địa hình đi lại cách trở, nhiều sông suối, nhận thức của đại bộ phận học sinh, phụ huynh còn chưa tốt. Tất cả đã gây cản trở rất lớn cho giáo dục nhà trường, đặc biệt là giáo dục mũi nhọn. Đầu vào gần đây là năm học vừa qua điểm cao nhất của học sinh bao gồm cả điểm cộng là 20 điểm, còn lại đa phần điểm rất thấp.
Mặt khác, môn Lịch sử cấp THCS không được chú trọng và coi là môn phụ nên gần như học sinh không có phương pháp và rời rạc không hiểu rõ vấn đề vì nhiều trường còn thiếu giáo viên Lịch sử. Đây là cản trở lớn trong tuyển chọn học sinh giỏi. Tuy nhiên do đặc thù vùng 135 nên học sinh chủ yếu theo khối C và một bộ phận học sinh nhất là học sinh thuộc vùng tuyển sinh Nông Cống, Tĩnh Gia có chút tố chất và đây là thuận lợi cơ bản để giáo viên áp dụng "Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học của HS trong ôn luyện HS mũi nhọn môn lịch sử ở trường THPT Như Thanh 2" vào ôn luyện.
2.2.2.2. Về giáo viên.
- Giáo viên 100% đạt chuẩn, trẻ và có lòng yêu nghề, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thâm niên công tác lớn hơn 9 năm nên cơ bản có đủ kinh nghiệm ôn luyện.
- Tuy nhiên còn bộ phận không nhỏ giáo viên chậm và ngại đổi mới, không muốn thay đổi, thỏa mãn với những gì mình có, chất lượng học sinh thấp nên không có tâm huyết đổi mới.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1.Tìm hiểu về “năng lực tự học".
2.3.1.1. Khái niệm 
- Năng lực: Theo từ điển tiếng Việt “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. 
- Năng lực tự học: Theo Nguyễn Cảnh Toản: “ Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra”.
- Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội dung học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau”.
 - Tự học là một bộ phận không thể tách rời của quá trình học tập, là quá trình mà: “Người học tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo. Đây là phương thức học tập cơ bản của giáo dục học không chính quy, giáo dục thường xuyên, đồng thời là một bộ phận không thể tách rời của quá trình học tập có hệ thống trong các trường học nhằm đào sâu, mở rộng để nhằm nắm vững kiến thức của học sinh”. 
- Như vậy, tự học tự học phải là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại. Người thầy chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ nhằm tăng cường hiệu quả của việc học. Trong việc ôn thi học sinh giỏi, vai trò của người thầy càng giảm dần, cho đến lúc HS hoàn toàn đảm nhận được việc học của mình 
2.3.1.2. Các hình thức của hoạt động tự học. 
Hoạt động tự học được coi là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau: 
- Hình thức 1: Tự học có sự điều khiển trực tiếp của người dạy và những phương tiện kỹ thuật trên lớp
- Hình thức 2: Tự học không có sự điều khiển trực tiếp của người dạy.
- Hình thức 3: Người học tự tìm kiếm tri thức để thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của mình bằng cách tự tìm tài liệu, tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phân tích, đánh giá đây là hoạt động tự học có mức độ khó khăn cao nhất.
2.3.2. Biện pháp thực hiện và ví dụ minh họa.
* Biện pháp 1: Xác định mục đích, động cơ của người học.
Là một ngôi trường miền núi, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, học sinh không có chí hướng, không có mục tiêu và động cơ trong học tập. Vì vậy, vận động học sinh đi ôn thi đội tuyển quả là một bài “ toán khó” với chúng tôi. Tuy nhiên, đánh vào “tâm lí” tôi đã tìm cách khích lệ học sinh, tạo ra miền đam mê và động cơ để các em không chỉ yêu thích môn học mà còn tự giác trong việc học.
Trước hết: tôi lắng nghe học sinh chia sẽ tâm tư nguyện vọng như: học môn sử rất khó, nhiều sự kiện, khó có giải hơn môn Địa hay gia đình em khó khăn phải tranh thủ thời gian giúp bố mẹ hay nhà có em nhỏ phải ở nhà trông em.... Từ đó, tôi phải phân tích, giảng giải để các em hiểu được ý nghĩa và vai trò của việc học. Đặc biệt là không quên nhấn mạnh đến phần thưởng mà các em có thể nhận được nếu đạt được giải( khuyến khích được 500 ngàn, từ giải 3 trở lên được 1 triệu tiền thưởng của trường và khuyến học của huyện và hiệu trưởng sẽ thưởng nóng từ giải 3 với mức thưởng 500 ngàn và tăng theo chất lượng giải) từ đó có thể giúp đỡ được gia đình. Xuất phát từ đó mà trong năm học vừa qua học sinh đội tuyển rất tự giác trong việc tự học để nâng cao hiệu quả và chất lượng trong ôn luyện.
 Hình ảnh GV gặp gỡ đội tuyển HS giỏi
Thứ hai: Đến thăm gia đình – kết hợp với phụ huynh học sinh: Khi tiếp xúc với học sinh trong đội tuyển, tôi được biết là trong đội tuyển có 2 HS thuộc diện hộ nghèo, 3 HS có em nhỏ vì thế để có thời gian tự học ở nhà là quả khó khăn. Vì vậy, tôi có biện pháp và mang lại hiệu quả cao đó là đến thăm, gặp gỡ giai đình HS với mong muốn gia đình tạo điều kiện thuận lợi cho HS trong việc tự học ở nhà. Tâm sự với chúng tôi phụ huynh nói: Chúng tôi cũng muốn cho con cái đi học cho bằng bạn bằng bè, sau này cho nó đỡ khổ, nhưng gia đình quá khó khăn, mong thầy cô thông cảm.
 Hình ảnh GV gặp gỡ phụ huynh HS
Nói đến đây tôi ngắt lời phụ huynh và hứa với gia đình sẽ đề xuất với GV, nhà trường sẽ miễn các khoản đóng góp cho HS và sẽ tạo mọi điều kiện cho em đi học và rằng muốn cho các em thoát nghèo không còn con đường nào khác là con đường học hành và tôi cũng không quên lấy một dẫn chứng tiêu biểu về một HS vượt khó của trường nằm trong đội tuyển sử và nay đã thành công đó là em Lương Thị Chiều em là HS dân tộc Thái có hoàn cảnh gia đình khó khăn mẹ bị bệnh tim ốm đau liên miên bố thì sức khỏe cũng không ổn định không đi làm được nhưng được GV động viên cùng sự giúp đỡ của nhà trường ngay từ năm lớp 11 em đã đạt giải 3 HS giỏi môn lịch sử, năm 12 em là HS giỏi toàn diện và đặc biệt em là 1 trong 56 HS được sở GD và ĐT khen thưởng vinh danh trong năm học 2017 – 2018 với số điểm thi 26 tổng điểm 3 môn và em đậu vào khoa Sử chất lượng cao của Đại học Hồng Đức. Với việc kết hợp nguyên tắc: cứng rắn và mền dẻo, tình thương và trách nhiệm tôi đã động viên được đội tuyển HS của mình tích cực tự giác trong việc học.
* Biện pháp 2: Phát huy năng lực tự học thông qua bài học cụ thể.
- Đây là một biện pháp tốt để có thể phát huy được năng lực tự học của học sinh. Trước khi cung câp kiến thức cho học sinh tôi thường đặt ra những câu hỏi học sinh cần phải trả lời được trong bài học và HS hoàn thành qua sơ đồ tư duy mà GV đã cho sẵn.
- Ví dụ: Khi dạy bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược từ 1858 đến 1873. Trước khi cung cấp kiến thức cho HS giáo viên đặt một số câu hỏi và HS phải trả lời thông qua hoàn thành sơ đồ tư duy: 1. Tình hình nước ta trước khi pháp xâm lược? 2. Tại sao Pháp đánh chiếm Đà Nẵng đầu tiên; cuộc kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng diễn ra như thế nào? Kết quả - ý nghĩa. 3. Kháng chiến ở Gia Định và các tỉnh Nam kì như thế nào? Thái độ của triều đình. 4. Rút ra đặc điểm của cuộc kháng chiến ở Nam kì. Và yêu cầu HS làm theo sơ đồ tư duy
- Sau khi học sinh làm bài xong tôi yêu cầu từng học sinh lên bảng trình bày theo "sơ đồ tư duy ".
Chính trị
Tình hình VN trước khi Pháp xâm lược.
Bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858 – 1873
Kinh tế
Xã hội
TDP đánh chiếm Đà Nẵng - 1858
Thời gian
Mục đích
Cuộc KC của quân dân ta.
Hoàn cảnh
Bài 
 19
Kháng chiến ở Gia Định 1859
Quá trình
Nhân dân
Cuộc KC của quân dân ta
Triều đình
Nhân dân 3 tỉnh m.Đ KC sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862
Nguyên nhân
Hình thức
Tiểu biểu
Nguyên nhân
Nhân dân 3 tỉnh m. Tây KC chống TD Pháp
Hình thức
Tiêu biểu
Đặc điểm
 Sơ đồ tư duy bài 19
 HS lên trình bày theo sơ đồ
- Trong quá trình học sinh lên bảng trình bày tôi đã áp dụng kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực: Trước tiên yêu cầu cả nhóm phải thực sự chú ý và giữ im lặng. Sau đó yêu cầu học sinh khác nhận xét phần trình bày của bạn một cách chân thành. Nếu thiếu cần bổ sung, giáo viên quán triệt học sinh không được chê bai bạn mà chỉ góp ý, xây dựng.
Học sinh nhận xét bài làm của bạn.
- Cuối cùng giáo viên nhận xét và chốt lại kiến thức cho học sinh. Trong quá trình nhận xét tôi chủ yếu đưa ra những lời khen trước, tuyệt đối không chê bai học sinh và yêu cầu học sinh hoàn thiện hơn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi khó. Đối với những câu hỏi khó tôi buộc phải có "thần thái'' tốt để học sinh bớt căng thẳng và sợ kiến thức bằng cách chỉ địa chỉ kiến thức ở đâu và nhẹ nhàng chỉ bảo cho học sinh..
* Biện pháp 3: Sử dụng hoạt động nhóm để phát huy năng lực tự học của học sinh.
GV hướng dẫn HS hoạt động nhóm HS hoạt động nhóm
- Hình thức này được sử dụng khi dạy học những bài có nhiều đơn vị kiến thức, nó được thực hiện trong quá trình nghiên cứu kiến thức mới hay trong củng cố, sơ kết, ôn tập, so sánh. 
- Trong quá trình làm việc nhóm tôi yêu cầu học sinh phải hợp tác với nhau. Mỗi buổi học thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và thư ký, sau khi hoạt động nhóm xong tôi yêu cầu học sinh tự trình bày sản phẩm và trao đổi với nhau. Theo sơ đồ: Bạn trình bày - mình nhận xét - bổ sung - bạn cuối phải chốt được kiến thức cho giáo viên
Ví dụ: Sau khi học xong bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược 1858 -1873. GV chia học sinh thành nhóm và hoàn thành vào bảng so sánh theo yêu cầu của GV: Chiến sự, thái độ của nhân dân, thái độ của triều đình.
PHIẾU HOẠT ĐỘNG NHÓM
Chiến sự
Thái độ của triều đình
Cuộc kháng chiến của nhân dân
Đà Nẵng
Gia Định và 3 tỉnh miền Đông
3 tỉnh miền Tây
- Khi học sinh làm việc nhóm với nhau sẽ thúc đẩy sự đoàn kết trong nhóm, các bạn biết lắng nghe và trao đổi với nhau một cách tích cực. Tôi quán triệt không đi tranh cãi mà chỉ nhận xét và bổ sung cho nhau, đích cuối cùng là hoàn thành bài học một cách trọn vẹn. Đa phần học sinh có thái độ phản hồi tích cực với nhau và gần như không có sự mâu thuẫn và cách tiếp thu bài dễ hiểu.. 
* Biện pháp 4: Phát huy năng lực tự học qua khai thác kênh hình (lược đồ) trong SGK.
- Khai thác nội dung kênh hình trong SGK là một phần phát huy tính tích cực học tập của học sinh vì trong dạy học lịch sử ngoài kênh chữ còn có kênh hình hỗ trợ để HS có thể học tập một cách tốt nhất. Làm thế nào để học sinh tìm hiểu kiến thức qua kênh hình, từ đó giúp các em nắm chắc, nhớ lâu, tự giác chủ động lĩnh hội kiến thức, tăng thêm sự hứng thú trong học tập.
- Ví dụ: khi dạy bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) thì việc sử dụng lược đồ chiến tranh thế giới thứ 2 là biện pháp hiêu quả nhất để học sinh nắm được nhanh nhất diễn biến của chiến tranh thế giới.
+ Bước 1: GV cho HS quan sát lược đồ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ 2 (màu sắc, hướng tiến công....) và xác định nội dung cần khai thác qua hình ảnh
+ Bước 2: HS tự tìm hiểu nội dung sau khi GV hướng dẫn quan sát lược đồ.
+ Bước 3: Học sinh lên trình bày – bạn bổ sung
+ Bước 4: GV nhận xét – bổ sung.
 Hình ảnh HS khai thác kênh hình trong SGK 
HS lên trình bày theo lược đồ
* Biện pháp 5: Sử dụng hoạt động cặp đôi
- Hoạt động này tôi thường sử dụng trong ôn luyện phần điền vào bảng sự kiện nằm trong cấu trúc của đề thi HS giỏi. Trong mỗi bài học này tôi thường giao nhóm gồm 2 HS mỗi bạn tìm một dữ kiện (thời gian hoặc sự kiện) theo hình thức hỏi đáp.
- Ví dụ: Khi dạy bài 31: “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”, GV sẽ lập 1 bảng sự kiện yêu cầu HS hoàn thành bảng sự kiện.
Bảng sự kiện
Hoạt động cặp đôi của HS
- Sau khi HS điền xong GV sẽ gọi từng cặp nhóm 1 lên trình bày và để phát huy tốt nhất trong phần học này tôi sẽ phân thời gian, các nhóm sẽ thực hiện theo kiểu trò chơi tiếp sức. Nhóm nào làm nhanh và đúng nhất sẽ có phần thưởng (chủ yếu là gói bim bim), nhưng cũng khích lệ HS rất nhiều và tôi đã đạt được kết quả khả quan khi trong câu điền vào bảng sự kiện của kì thi HS giỏi cấp tỉnh vừa qua 3/HS đạt điểm tuyệt đối 3 điểm, 2 HS đạt 2,75 điểm. Theo quan điểm của tôi đây là phần thi dễ lấy điểm nhất và đạt điểm tuyệt đối nên HS phải hết sức cố gắng ở nội dung này.
 HS trình bày bảng sự kiện
* Biện pháp 6: Tự kiểm tra, tự đánh giá của HS
- Đây là một biện pháp mới mà trong năm học vừa qua tôi áp dụng trong quá trình ôn luyện và thấy có hiệu quả rất cao. Sau khi học xong một bài tôi thường giao nhiệm vụ cho HS. Mỗi HS sẽ tự tìm ra trong bài những câu hỏi và giao cho bạn mình làm, sau đó tự chấm bài và nhận xét, phần cuối cùng là GV sẽ nhận xét. Để

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_phat_huy_nang_luc_tu_hoc_cua_hoc.doc