SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy - Học văn bản kịch trong chương trình Ngữ văn THPT
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Luật Giáo dục, điều 28 ghi rõ: “ phương pháp giáo dục, đào tạo phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ”. Có thể nói, cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Muốn học sinh học tập chủ động, người giáo viên trước hết phải có phương pháp dạy đúng, phải hình thành được ở học sinh kĩ năng học, khi đã có kĩ năng người học sẽ chủ động nắm bắt tri thức “ Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nâng lên gấp bội” (“Những vấn đề chung về đổi mới GD THPT”-Trang 33). Dù phương pháp dạy nào đi nữa, mục đích cuối cùng phải đạt đến là học sinh tiếp thu bài đạt hiệu quả cao nhất. Để có được điều đó, giáo viên cần có biện chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh.
MỤC LỤC 1. Mở đầu 2 1.1. Lí do chọn đề tài . 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu .. 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu . 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ...... 4 2.1. Cơ sở lí luận 4 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ... 10 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 11 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 19 3. Kết luận, kiến nghị 20 Tài liệu tham khảo . 21 Phụ lục 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Luật Giáo dục, điều 28 ghi rõ: “ phương pháp giáo dục, đào tạo phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinhbồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Có thể nói, cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Muốn học sinh học tập chủ động, người giáo viên trước hết phải có phương pháp dạy đúng, phải hình thành được ở học sinh kĩ năng học, khi đã có kĩ năng người học sẽ chủ động nắm bắt tri thức “ Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nâng lên gấp bội” (“Những vấn đề chung về đổi mới GD THPT”-Trang 33). Dù phương pháp dạy nào đi nữa, mục đích cuối cùng phải đạt đến là học sinh tiếp thu bài đạt hiệu quả cao nhất. Để có được điều đó, giáo viên cần có biện chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Chương trình ngữ văn trung học phổ thông có đưa vào các văn bản văn học rất phong phú và đa dạng, trong đó có mặt các văn bản kịch đặc sắc của các tác giả nổi tiếng. Kịch là một loại hình tổng hợp, ở đó có hội tụ đặc trưng của các loại hình nghệ thuật khác, đồng thời cũng mang đặc trưng riêng của nó. Văn bản kịch cũng vậy, nó mang đặc trưng riêng không giống với các văn bản văn học thông thường. Vì thế khi dạy những văn bản này cần lứu ý để khai thác hết cái hay, cái đặc sắc của nó. Thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng, đôi khi dạy văn bản kịch, nếu không để ý, chúng ta sẽ đánh đồng nó giống như dạy những văn bản văn học thông thường khác. Điều này gặp phải khi chúng ta không chú trọng đến đặc trưng của văn bản kịch. Và khi đó, toàn bộ cái hay của văn bản kịch có được do đặc trưng của nó không được thể hiện trong bài dạy. Đáng ngại hơn nữa, học sinh cảm thấy không mấy hứng thú và tiếp thu bài không hiệu quả, không có ấn tượng sâu sắc với bài học. Để hy vọng góp phần tạo ra giờ dạy văn bản kịch một cách hiệu quả, ở đó vừa khai thác được hết đặc trưng của văn bản kịch, vừa tạo ra sự tiếp thu một cách có hiệu quả từ phía học sinh, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy - học văn bản kịch trong chương trình Ngữ văn THPT”. 1.2. Mục đích nghiên cứu:. Đề tài nghiên cứu nhằm là rõ đặc trưng của thể loại kịch và đưa ra một số biện pháp dạy văn bản kịch căn cứ vào các đặc trưng đó. Theo đó nhằm tạo ra bài dạy một văn bản kịch bất kì có khai thác hiệu quả các đặc trưng của kịch và khêu gợi sự hứng thú của học sinh làm cho giờ học diễn ra sôi nổi hơn, học sinh ham học hơn, không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến tiết học văn bản kịch . 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: phương pháp dạy văn bản kịch. - Phạm vi nghiên cứu: các văn bản kịch trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông - chương trình chuẩn. Đó là: + Văn bản kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng). + Văn bản kịch Tình yêu và thù hận (trích Tình yêu và thù hận của Sếch-xpia). + Văn bản kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ). 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Tham khảo các tài liệu có liên quan - Rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của bản thân - Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp - Vận dụng một số phương pháp chung của bộ môn, từ đó đưa ra một số biện pháp cụ thể đã áp dụng được trong thực tế giảng dạy và đạt hiệu quả. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Để dạy tốt một văn bản kịch trước hết giáo viên cần tìm hiểu kĩ các đặc trưng của kịch. 2.1.1. Khái niệm kịch Theo “Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Văn học, 2004” thuật ngữ này được dùng theo hai cấp độ: * Ở cấp độ loại hình: Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa diễn là chủ yếu vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Song nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói. Kịch được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thưở mang tính nhân loại (như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật. Phần lớn kịch được xây dựng trên hành động kịch với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại các nhân vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng. Trong kịch, những lời phát biểu của các nhân vật (trong đối thoại hoặc độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá ở họ có một ý nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những điều đã qua, sự thông báo của người dẫn chuyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến. Về mặt kết cấu, vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thể kỷ khác nhau, mối quan hệ giữa ba yếu tố: thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu của kịch không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của người sáng tạo và quy mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố được phản ánh. Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau. * Ở cấp độ thể loại. Thuật ngữ kịch (đram) được dùng để chỉ một thể loại văn học- sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng còn gọi là chính kịch (hoặc kịch đram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích không phải là cười nhạo, chế giễu các thói hư tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống như bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, xong những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể được giải quyết ổn thỏa. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường. Ở Việt Nam, kịch ra đời vào cuối những năm 20 của thể kỷ XX, với những sáng tác như Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của Vi Huyền Đắc,Từ sau Cách mạng Tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học- sân khấu và xã hội ở nước ta. 2.1.2. Đặc trưng của kịch. Là một thể loại văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật, người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch bản văn học. Tuy nhiên kịch bản không thể thay thế và bộc lộ được đầy đủ vẻ đẹp của một tác phẩm kịch như được trình diễn trên sân khấu. Những nhà viết kịch nổi tiếng thế giới như Mô-li-e, Gô-gôn, Sếc-xpia, Sê-khốpđều thừa nhận mối liên hệ mang tính sống còn giữa kịch bản văn học với bộ môn nghệ thuật sân khấu, trong đó kịch bản văn học là “linh hồn”, là cái “gốc” cho sự thành công mang ý nghĩa trọn vẹn này. Vì vậy, việc tìm hiểu đặc trưng của thể loại kịch theo hướng tiếp cận từ phía sân khấu là hợp lý. Đặc trưng của kịch không thể thoát ly khỏi điều kiện sân khấu và sự giới hạn về mặt thời gian, không gian, khối lượng sự kiện, số lượng nhân vật. Trong mối giao lưu ấy, kịch hướng tới sự khái quát nghệ thuật bằng sự miêu tả mang tính tập trung, dồn nén hiện thực và một hình thái ngôn ngữ mang tính loại biệt. Kịch lựa chọn những xung đột trong đời sống làm đối tượng mô tả. Dưới dạng xung đột, những vấn đề thuộc bản chất của hiện thực được quy tụ, nổi bật. Lí giải được những vấn đề thuộc phạm trù xung đột thông qua hệ thống hành động bằng sức mạnh riêng của ngôn ngữ nhân vật có nghĩa là nhà viết kịch đã lí giải được những vấn đề mang ý nghĩa nhân bản luôn đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại bằng tiếng nói nghệ thuật riêng của thể loại. * Xung đột kịch Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết kịch đã đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm xác lập nên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch. Muốn khám phá được những vấn đề thuộc về bản chất của đời sống xã hội, người viết kịch phải tạo ra được những xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Giữa dòng hiện thực, trong nó bao gồm sự vận động đa chiều của các phạm trù thẩm mỹ: cái đẹp- cái xấu, cái cao cả- cái thấp hèn, cái thiện- cái ác, cái mới (tiến bộ)- cái cũ (lạc hậu), xung đột kịch thường nằm ở thời điểm cao trào trong sự vận động ấy. Từ những mâu thuẫn đang tồn tại trong lòng hiện thực, người viết kịch phải tiến hành quá trình chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo nên những xung đột vừa mang tính khái quát lớn lao, vừa phải hết sức chân thực: nghĩa là, xung đột trong tác phẩm kịch phải được tổ chức trên cơ sở của phương thức điển hình hóa. Xung đột kịch có thể gay gắt cực độ dẫn tới sự tiêu vong của một bên như bi kịch, cũng có thể hòa điệu hơn như trong hài kịch, xung đột kịch có thể là sự đụng độ quyết liệt giữa những mâu thuẫn đối kháng về giai cấp, về thời đại như trong kịch lịch sử (kịch Nguyễn Huy Tưởng, Đào Hồng Cẩm), xung đột kịch cũng có thể mang sắc thái trữ tình như trong kịch tâm lý (kịch Lưu Quang Vũ); xung đột kịch cũng có thể được biểu thị bằng mối xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa tính cách và tính cách, hoặc ngay trong bản thân một tính cách tất cả đều phải đạt đến độ chân thực và điển hình. Thiếu ý nghĩa điển hình, tác phẩm kịch chỉ là sự mô phỏng những mâu thuẫn vụn vặt, tầm thường của đời sống, là những dòng thuyết lý suông. * Hành động kịch Hành động kịch cần được hiểu trong tính thống nhất toàn vẹn của nó. Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột. Cứ thế, nội dung câu chuyện kịch nhanh chóng tới kết thúc. Hành động kịch ở đây chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuân khổ của một chỉnh thể nghệ thuật. Mọi hành động trong tác phẩm kịch dù trực tiếp hay gián tiếp đều đều dựa trên quy luật nhân quả. Hành động này là kết quả của hành động trước nhưng lại là nguyên nhân thúc đẩy hành động sau. Theo hướng vận động ấy các cảnh, các màn, các hồi, các lớp liên kết chặt vào nhau, loại bỏ những gì thừa thãi, vượt đến đỉnh điểm của xung đột và hướng nhanh tới kết thúc. Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định tính cách nhân vật. Tác phẩm kịch thường gợi lên những nhân vật nung nấu ý chí hành động mãnh liệt. Hành động kịch gây nên những cảm xúc của nhân vật, nhân vật tự khẳng định bản chất của mình bằng hành động. Sau khi xuất hiện, nhân vật nhập ngay vào tuyến xung đột và bị cuốn nhanh vào guồng hành động của tác phẩm. Mọi tình huống trong tác phẩm kịch đều góp phần đắc lực để cho nhân vật hành động. Tình huống kịch phải được chọn lọc để phù hợp với hướng khai thác tập trung tiêu biểu của tính cách kịch. Nhân vật kịch luôn là những người khao khát hành động. Nhân vật kịch cảm hóa, thuyết phục và mang lại nhận thức cho độc giả, khán giả bằng hành động. * Ngôn ngữ kịch Đối với một tác phẩm kịch tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều nằm trong ngôn ngữ nhân vật. Đó là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ đối thoại. Đó là sự đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Dĩ nhiên không phải bất cứ một tác phẩm nào viết theo hình thức đối thoại cũng đều là kịch. Song ngôn ngữ đối thoại được coi là dấu hiệu đầu tiên của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ độc thoại Xen kẽ giữa hệ thống ngôn ngữ đối thoại là là những mẩu độc thoại. Ngôn ngữ độc thoại là tiếng nói của nhân vật chỉ nói với chính mình. Để nhân vật tự nói lên những uẩn khúc bên trong, các tác giả kịch nhằm khái thác chiều sâu tâm lí cho các nhân vật. Khi trình diễn trên sân khấu, người ta có thể thay đổi màu sắc, ánh sáng, sử dụng tiếng vọng , hoặc tái hiện lại những hình bóng đã lùi vào quá khứ. Sân khấu hiện đại còn sử dụng thủ pháp đồng hiện: nhân vật tự phân thân để đối thoại cùng nhau (Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ sử dụng thủ pháp này). Ngôn ngữ khắc họa tính cách. Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết là ngôn ngữ khắc họa tính cách. Mỗi nhân vật với nguồn gốc xuất thân, bản chất xã hội và một đặc điểm cá tính riêng phải có một tiếng nói riêng thật phù hợp. Đó là một đòi hỏi tất yếu, bởi vì bản chất của nhân vật kịch “chỉ có chỉ có thể được bộc lộ qua lời lẽ của chính họ mà thôi”. Ngôn ngữ kịch mang tính hành động. Hệ thống ngôn ngữ này có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao tác hành động. Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong hình tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay trong cấu tạo kịch bản văn học. Tính hành động là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lý thích hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu. Ngôn ngữ kịch là một hình thái ngôn ngữ gần gũi với đời sống. Đó là thứ ngôn ngữ súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Các nhân vật kịch đối đáp một cách tự nhiên giản gị theo cách đối thoại trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, sự giản dị, tự nhiên ấy không hề mâu thuẫn với những cách nói năng giàu ẩn ý, giàu hình tượng và ý nghĩa triết lý sâu xa mà chúng ta thường bắt gặp trong tác phẩm kịch. Mặc dầu rất gần gũi với ngôn ngữ đối thoại hàng ngày, nhưng tác phẩm kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô thiển cũng như cách nói năng tự nhiên chủ nghĩa. 2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến Qua thực tế giảng dạy Ngữ văn các lớp khối 11 và khối 12 ở các năm học trước, khi dạy đến các văn bản kịch, tôi thấy gặp phải một số vấn đề bất cập. Thứ nhất, giáo viên dạy văn bản kịch với trình tự, cách khai thác và phương pháp dạy học không khác dạy một văn bản văn học thông thường. Khi đó toàn bộ cái hay của văn bản kịch có được do đặc trưng của nó không được khai thác. Thứ hai, hầu hết các giáo viên đều thừa nhận dạy văn bản kịch là rất khó. Tất cả đều băn khoăn làm sao tìm ra một phương pháp, một cách khai thác để toát lên cái hay của văn bản kịch. Thứ ba, học sinh cũng cảm thấy khó tiếp nhận, dẫn đến việc không mấy hứng thú khi học các văn bản kịch. Hầu hết các em đề thừa nhận không có ấn tượng sâu sắc sau khi học và kết quả sau khi thể nghiệm kiến thức là không cao. Thực trạng trên đòi hỏi phải có một phương pháp dạy văn bản kịch hiệu quả, ở đó tạo ra được sự hấp dẫn, tạo hứng thú cho học sinh. Quan trọng hơn là có được hiệu quả truyền đạt đến mức tối đa nội dung bài học theo đặc trưng của loại hình kịch. Các biện pháp dạy văn bản kịch phải bám sát vào đặc trưng của loại hình và thể loại. Cái hay của văn bản kịch chỉ được khai thác tối đa dựa vào các đặc trưng đã được nêu ở phần trên. Dưới đây là một số cách khai thác đặc trưng của kịch khi dạy văn bản kịch. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà - Giáo viên giới thiệu đặc điểm, trọng tâm bài học. - Đưa ra hệ thống câu hỏi để học sinh chuẩn bị bài ở nhà Câu hỏi giáo viên đưa ra có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với mọi đối tượng học sinh, kích thích ham muốn tìm hiểu và học tập của các em. Để có một giờ học sôi nổi, thành công, người thầy cần nắm chắc đặc trưng thể loại, mục tiêu bài học để chuẩn bị được một hệ thống câu hỏi khoa học. - Giáo viên chia lớp làm 4 tổ, chuẩn bị tập kịch trước một tuần. + Giáo viên hướng dẫn học sinh chọn lớp kịch để diễn. (Ví dụ : với đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, 4 tổ nên lần lượt diễn các lớp 1,7,8,9). + Giáo viên giới thiệu tài liệu tham khảo, băng đĩa cho học sinh, địa chỉ trên mạng để tìm tư liệu, + Giáo viên phân công một học sinh trong vai trò MC đồng thời là người dẫn chuyện, dẫn dắt để đi vào vở diễn. + Giáo viên hướng dẫn học sinh diễn kịch: Phải làm nổi bật đặc điểm, tính cách của nhân vật, xung đột và hành động kịch qua lời thoại của từng nhân vật. Chú ý tới giọng điệu, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, từ ngữ, kiểu câu của mỗi nhân vật. Từ đó làm rõ chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã hội của đoạn trích, tác phẩm. + Học sinh diễn thử cho giáo viên xem trước, giáo viên nhận xét, góp ý, sửa chữa. + Giáo viên phải chú ý thời gian biểu diễn của học sinh. 2.3.2. Thực hiện ở trên lớp 2.3.2.1. Bước đầu cho học sinh nắm được thể của loại hình kịch. Như trên đã trình bày, ở cấp độ loại hình, kịch gồm nhiều những thể loại khác nhau như: bi kịch, hài kịch, chính kịch Mỗi thể loại mang những đặc trưng riêng mà chúng ta phải làm rõ trong quá trình phân tích văn bản kịch. Ví dụ: khi dạy đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng), GV cần làm rõ: Vũ Như Tô là một vở bi kịch. Bi kịch là một thể của loại hình kịch (đối lập với thể hài kịch). Ngoài các đặc điểm chung của loại hình, bi kịch còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này chủ yếu được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột và nhân vật. Xung đột kịch được tạo ra từ những mâu thuẫn “không thể giải quyết được”; mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến “diệt vong những giá trị quan trọng”. Nhân vật chính của bi kịch thường là những anh hùng. Nhân vật bi kịch là những con người có những say mê, khát vọng lớn lao; đồng thời, đôi khi còn có cả những sai lầm trong hành động và suy nghĩ. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm nhân văn ở mỗi con người. “Bi kịch là một thể loại nghiêm ngặt đến khắc nghiệt; nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hòa và căng thẳng đến cực hạn, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật”. 2.3.2.2. Đặt đoạn trích trong mối quan hệ với toàn bộ tác phẩm. Kịch là một loại hình có quy mô khá lớn. Điều đó không chỉ được thể hiện ở nội dung phản ánh, kịch phản ánh vấn đề của thực tại cuộc sống và đặt ra vấn đề sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật. Quy mô của kịch còn được thể hiện ở hình thức. Kịch bao gồm nhiều cảnh, lớp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng trong khuôn khổ của một bài học, chương trình học chỉ trích dẫn một đoạn trích nào đó đặc sắc nhất. Toàn bộ các cảnh, các lớp của vở kịch có một quá trình vận động thống nhất. Đó là: thắt nút, cao trào, phát triển và mở nút. Vì thế phần được trích trong SGK chỉ thuộc vị trí nhất định. Vì hai lí do trên, khi dạy văn bản kịch cần phải đặt đoạn trích trong mối quan hệ với toàn bộ tác phẩm. Hay nói cách khác, GV phải giúp HS nhận diện được vị trí đoạn trích. GV có thể tiến hành hai công việc như sau: - Nêu vắn tắt nội dung vở kịch. Ví dụ : Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gồm 7 cảnh: Cảnh 1: Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích trên thiên đình. Nam Tào, Bắc Đẩu ngồi làm công việc điểm tên những người phải chết trong một ngày. Đế Thích, vua cờ trên thiên đình đến tỏ ý muốn xuống hạ giới tìm người đánh cờ cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở dinh Thái thượng Lão Quâ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_van_ban_kich.doc
- BÌA.doc
- PHỤ LỤC.doc