SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một viết đúng chính tả
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là công cụ tư duy của một dân tộc nói chung và của các em học sinh trong nhà trường nói riêng. Ngôn ngữ đồng thời còn là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của một nền văn hóa dân tộc, góp phần làm nên và thể hiện ra bản sắc, giá trị của nền văn hóa ấy. Là hệ thống ký hiệu bằng các con chữ và các dấu, chữ viết ghi lại ngôn ngữ âm thanh, thành tiếng của con người, giúp con người vượt qua những trở ngại về không gian và thời gian, ghi lại những kinh nghiệm ngàn đời của cha ông về tự nhiên và xã hội, sáng tạo ra các tác phẩm văn chương cho muôn đời. Chữ viết là một hệ thống ký hiệu bằng đồ hình có chức năng cố định hoá ngôn ngữ âm thanh, thay cho lời nói - chữ viết là phương tiện giao tiếp quan trọng trong cuộc sống của chúng ta nói chung và trong học tập nói riêng. “Nét chữ - Nết người”, là phản ánh ý thức rèn luyện tư duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Chữ viết có vai trò rất quan trọng đối với con người. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết là một sự biểu hiện của nết người, dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện các tính cẩn thận, tính kỷ luật và lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy đọc bài, đọc vở của mình”. Vì vậy chữ viết cần phải đúng, đẹp. Chữ viết sai chính tả hiệu quả giao tiếp sẽ giảm, gây hiểu lầm trong giao tiếp và hậu quả khó lường trước được.
Đối với nhà trường phổ thông ở Việt Nam, việc phát âm chuẩn và viết đúng chính tả có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xây dựng và rèn luyện ngôn ngữ là tiếng Việt. Môn Tiếng Việt có chức năng là rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong nhà trường; và mục tiêu đầu tiên của giáo dục tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng "đọc thông viết thạo" chữ Quốc ngữ. Chính tả là một phần trong nội dung chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Đây là môn học có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản - đó là nghe, nói, đọc, viết. Có kỹ năng chính tả thành thạo sẽ giúp cho học sinh học tập, giao tiếp và tham gia các quan hệ xã hội được thuận lợi; đồng thời việc mỗi thành viên trong xã hội (trong đó có học sinh) phát âm chuẩn và viết đúng chính tả sẽ góp phần giữ gìn sự trong sáng và thống nhất của Tiếng Việt.
MỤC LỤC + Kết luận:.. .....19 + Kiến nghị:..19 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất mà còn là công cụ tư duy của một dân tộc nói chung và của các em học sinh trong nhà trường nói riêng. Ngôn ngữ đồng thời còn là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của một nền văn hóa dân tộc, góp phần làm nên và thể hiện ra bản sắc, giá trị của nền văn hóa ấy. Là hệ thống ký hiệu bằng các con chữ và các dấu, chữ viết ghi lại ngôn ngữ âm thanh, thành tiếng của con người, giúp con người vượt qua những trở ngại về không gian và thời gian, ghi lại những kinh nghiệm ngàn đời của cha ông về tự nhiên và xã hội, sáng tạo ra các tác phẩm văn chương cho muôn đời. Chữ viết là một hệ thống ký hiệu bằng đồ hình có chức năng cố định hoá ngôn ngữ âm thanh, thay cho lời nói - chữ viết là phương tiện giao tiếp quan trọng trong cuộc sống của chúng ta nói chung và trong học tập nói riêng. “Nét chữ - Nết người”, là phản ánh ý thức rèn luyện tư duy vào óc thẩm mĩ của người viết. Chữ viết có vai trò rất quan trọng đối với con người. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết là một sự biểu hiện của nết người, dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện các tính cẩn thận, tính kỷ luật và lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy đọc bài, đọc vở của mình”. Vì vậy chữ viết cần phải đúng, đẹp. Chữ viết sai chính tả hiệu quả giao tiếp sẽ giảm, gây hiểu lầm trong giao tiếp và hậu quả khó lường trước được. Đối với nhà trường phổ thông ở Việt Nam, việc phát âm chuẩn và viết đúng chính tả có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xây dựng và rèn luyện ngôn ngữ là tiếng Việt. Môn Tiếng Việt có chức năng là rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong nhà trường; và mục tiêu đầu tiên của giáo dục tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng "đọc thông viết thạo" chữ Quốc ngữ. Chính tả là một phần trong nội dung chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Đây là môn học có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản - đó là nghe, nói, đọc, viết. Có kỹ năng chính tả thành thạo sẽ giúp cho học sinh học tập, giao tiếp và tham gia các quan hệ xã hội được thuận lợi; đồng thời việc mỗi thành viên trong xã hội (trong đó có học sinh) phát âm chuẩn và viết đúng chính tả sẽ góp phần giữ gìn sự trong sáng và thống nhất của Tiếng Việt. Ở lớp Một, chính tả bắt đầu từ phần luyện tập tổng hợp. Các kỹ năng chính tả ở lớp Một là: - Điền vần, điền chữ ghi phụ âm đầu. - Tập chép (khuyến khích viết chữ hoa). - Nghe - viết ( khuyến khích viết chữ hoa). - Trả lời câu hỏi trong mục câu hỏi và bài tập . Ở lớp Một, chủ yếu vẫn là kỹ năng: xác định vần, âm đầu và tập chép, kỹ năng nghe - viết chỉ được yêu cầu 3/22 bài chính tả ở lớp Một. Như vậy, nhìn chung, chính tả lớp Một vẫn là giúp học sinh tập viết và luyện đọc cho chính xác, không có ý đánh đố các em về cách viết chữ. Trong những năm gần đây, phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Hậu Lộc nói chung và trường Tiểu học Hưng Lộc 2 nói riêng đang được quan tâm và gặt hái được những thành công đáng kể. Tất cả giáo viên và học sinh đều chú trọng tham gia nhiệt tình với quyết tâm cao. Đó chính là động lực giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra “Giáo dục con người toàn diện”. Học sinh lớp Một - lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học. Khả năng tư duy của các em còn rất hạn chế. Trong suốt quá trình học từ tuần 1 đến tuần 24 học sinh mới được học vần (môn Tiếng Việt), học sinh đọc, viết vần, từ theo cỡ chữ vừa sang tuần 25, học sinh được học Tiếng Việt với nội dung tổng hợp trong đó có phân môn chính tả. Ở đây, yêu cầu từ sự hiểu biết, từ thói quen có được trong phần học vần, trong các môn học khác, học sinh phải chuyển từ viết chữ cỡ chữ vừa sang cỡ chữ nhỏ để chép và viết chính tả. Vì thế, các em thường lúng túng trong khi viết, khi trình bày bài, chữ viết không đều, không đúng cỡ và mắc nhiều lỗi chính tả, chất lượng chữ viết chưa thực sự cao. Vậy, làm như thế nào để nâng cao chất lượng phân môn chính tả cho học sinh lớp Một? Đó cũng chính là lí do khiến tôi chọn đề tài này: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một viết đúng chính tả” 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cũng như cách trình bày bài cho học sinh ngay từ những năm học đầu cấp học. - Đề xuất một số kinh nghiệm trong việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một để các bạn đồng nghiệp tham khảo và vận dụng trong quá trình dạy học nói chung và dạy học sinh lớp Một nói riêng. - Phạm vi sử dụng: Sáng kiến này được vận dụng vào tất cả các giờ học chính tả ở lớp Một và có thể vận dụng trong phân môn chính tả ở các lớp học trên (các biện pháp 1, 3, 4, 5, 7, 8, 9). 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một - Học sinh lớp 1A trường Tiểu học Hưng Lộc 2 năm học: 2016 - 2017. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra. (Dự giờ, đối chiếu. ...) - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: Sáng kiến này bản thân đã vận dụng trong năm học 2014 – 2015 và đã thu được những kết quả đáng kể. Song qua quá trình trực tiếp giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi thấy để chất lượng chữ viết của học sinh nói chung và học sinh lớp Một nói riêng ngày một được nâng lên. Trong năm học này, tôi đã bổ sung vào sáng kiến một số nội dung sau: - Giải pháp 9: Hướng dẫn học sinh cách chọn bút và đặt vở - Một số hình ảnh minh họa về: Bài viết mẫu của giáo viên; bài viết của học sinh; tư thế ngồi viết của học sinh. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Như chúng ta đã biết, mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng, một tiếng nói riêng. Tiếng Việt là ngôn ngữ được thống nhất trên toàn đất nước ta. Để giữ gìn và phát triển vốn chữ viết của Tiếng Việt thì nhà trường đóng vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ cả một quốc gia trong một giai đoạn xã hội - lịch sử nhất định, là nơi thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo ở mỗi cấp học, bậc học. Trong đó dạy chính tả ở tiểu học là một trong những nội dung đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt trong nhà trường. Thông qua việc học chính tả mà các em nắm được quy tắc chính tả và hình thành những kỹ năng, kỹ xảo về chính tả. Từ đó, mà nâng cao dần tình cảm quý trọng tiếng mẹ đẻ và nền văn học dân tộc. * Tình hình lớp: Năm học 2016 - 2017 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A. Lớp có 30 em trong đó có 13 em nữ và 17 em nam. Đa phần là con gia đình ngư nghiệp, nông nghiệp và có một bộ phận là lao động tự do. * Thuận lợi: Học sinh còn nhỏ nên các em đều biết nghe lời cô giáo, luôn luôn làm theo những gì cô giáo hướng dẫn. - Có môi trường cho các em học tập tốt, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. - Các em nhìn chung đều có ý thức học tập tốt, có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn những khó khăn như sau: - Học sinh lớp Một còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hoàn cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau như: có em mồ côi, có em bố mẹ lại đi làm ăn xa nên nhận thức và nếp sống cũng khác nhau và các em chưa thật sự được quan tâm đến việc học. Đặc biệt tư duy trẻ lớp Một cũng rất cụ thể cảm tính. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, hiếu động chưa biết tập trung lâu sự chú ý vào một cái gì đó. Năm đầu tiên của đời học sinh, trẻ rất bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang hoạt động học tập, đặc biệt rất dễ xúc động với các yêu cầu và quy tắc của trường học. - Hưng Lộc là một xã ven biển của Hậu Lộc. Người dân nơi đây ảnh hưởng của phương ngữ rất lớn. Chính vì thế hiện tượng học sinh phát âm sai dẫn đến viết sai khá phổ biến 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: * Thực trạng: Qua thực tế giảng dạy lớp Một, qua tìm hiểu học sinh tôi thấy: - Học sinh lớp Một viết chính tả nhìn chung đảm bảo tốc độ viết chữ theo qui định. - Có nhiều học sinh viết bài sạch sẽ, trình bày đẹp chất lượng về vở sạch chữ đẹp đều đạt kết quả cao trong các đợt kiểm tra. Song bên cạnh đó, giáo viên và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong giờ học chính tả. Cụ thể: + Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ (đặc biệt là ở những bài chính tả đầu tiên), nét chữ chưa chuẩn, sai cách ghi dấu thanh. + Do ảnh hưởng của phương ngữ: l- n, ch - tr, s - x nên khi viết chính tả hay mắc lỗi. + Một số học sinh chưa nắm chắc qui tắc chính tả: ng - ngh, g - gh, c - k nên khi gặp bài chính tả nghe - viết, học sinh dễ viết sai. + Trong các buổi học, học sinh thường viết chính tả đẹp và đúng hơn khi làm bài kiểm tra trong các lần kiểm tra định kì. + Học sinh không biết cách trình bày một bài viết chính tả (đoạn văn, đoạn thơ hay bài thơ). Đặc biệt với bài thơ viết theo thể lục bát hoặc viết chính tả tập chép, học sinh nhìn bài “mẫu” của giáo viên để chép và khi thấy giáo viên xuống dòng ở chữ nào thì học sinh cũng xuống dòng ở chữ đó (vì học sinh chưa hiểu bản chất của vấn đề). Ví dụ: Dạy bài chính tả tập chép “ Trường em” Bài viết bảng của giáo viên: + Bài viết vở của học sinh: * Kết quả của thực trạng: Với thực trạng như đã nêu trên, ngay từ bài viết chính tả đầu tiên bài “Trường em” tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: Tổng số học sinh Trình bày đúng, đẹp Trình bày đúng, nhưng chưa đẹp Trình bày chưa đúng SL % SL % SL % 30 8 26,6 11 36,7 11 36,7 Riêng về trình bày: Tổng số học sinh Viết đúng, viết đẹp Viết đúng nhưng chưa đẹp Viết còn sai một vài lỗi Viết còn sai nhiều lỗi SL % SL % SL % SL % 30 6 20,0 10 33,3 8 26,7 6 20,0 Trước vấn đề trên, tôi đã tìm hiểu, suy nghĩ kết hợp với sự tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp, cuối cùng tôi xin đưa ra ý kiến của mình về“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một viết đúng chính tả” mà tôi đã thực hiện và cảm thấy có hiệu quả. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Giải pháp 1: Giúp học sinh hiểu nghĩa từ - ghi nhớ từ Là giáo viên giảng dạy lớp Một, tôi luôn chú trọng yếu tố này. Ngay từ các bài học vần, tôi luôn giải nghĩa từ khoá từ áp dụng trong các bài học vần qua tranh ảnh mô hình, lời giải thích giúp học sinh hiểu nghĩa từ, hiểu câu, đồng thời tôi đưa từ, câu văn vào văn cảnh cụ thể để học sinh dễ dàng hiểu từ, hiểu câu và hiểu sâu hơn (Phần luyện nói, đoạn ứng dụng), từ đó có cách đọc đúng, viết đúng. Bài viết chính tả phần lớn là viết lại một phần nội dung bài tập đọc đã học. Vì vậy, để học sinh viết tốt các bài chính tả thì ngay các tiết học tập đọc, giáo viên cần cho học sinh hiểu nghĩa từ trong bài đọc, hiểu câu, hiểu nội dung cơ bản của bài đọc. Trước khi viết bài chính tả, giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài viết. như vậy, khi viết chính tả, học sinh bắt đầu đã có vốn từ, nắm được nội dung bài, học sinh sẽ tự đọc - phân tích - viết đúng, đặc biệt là những tiếng, từ viết khó, hạn chế sự mắc lỗi. Giải pháp 2: Dạy học sinh viết - trình bày bài chính tả Từ tuần 25 học sinh lớp Một bắt đầu viết chính tả. Giai đoạn này học sinh vừa luyện chữ cỡ vừa và bắt đầu học phân môn chính tả. Như vậy, học sinh lớp Một không có một tiết học riêng nào và cũng chưa có lần nào để làm quen với cách viết các chữ theo cỡ chữ nhỏ trước khi các em viết bài chính tả. Do đó học sinh thường lúng túng khi viết chính tả như: + Không biết cách trình bày bài viết. + Chưa nắm được độ cao từng con chữ. Vậy, cần phải làm gì giúp các em khỏi bị lúng túng khi viết chính tả, đặc biệt ở những bài đầu ở của phân môn chính tả ? Với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp Một, các em “nói đấy”, “nghe đấy” rồi cũng “quên ngay đấy”. Nếu như các em không được làm quen, được nhắc nhở thường xuyên thì các em sẽ không biết làm, nếu có làm thì dễ bị sai, bị nhầm lẫn và không tránh khỏi lúng túng. Với lớp tôi, tôi đã thực hiện như sau: a) Giới thiệu chữ viết thường cỡ nhỏ: + Sau khi học sinh đã được làm quen, thực hành viết các chữ cái, học sinh đã nắm được cấu tạo con chữ, độ cao, độ rộng của từng con chữ cũng như kĩ thuật viết từng con chữ cỡ vừa. Khi chuyển sang phần vần, từ tuần 15, trong những giờ luyện Tiếng Việt, tôi “giới thiệu” với học sinh các con chữ trong vần hôm đó ôn luyện theo cỡ chữ nhỏ theo hình thức “đưa chữ mẫu viết theo cỡ chữ nhỏ để giới thiệu” với mục đích chủ yếu để học sinh có sự nhận biết ban đầu về độ cao, độ rộng của từng con chữ theo cỡ chữ nhỏ. Ví dụ: Luyện đọc bài 72: ut- ưt ( Tiếng Việt 1-tập 1 ). Trong bài này tôi giới thiệu cho học sinh con chữ “u. ư”, viết theo cỡ chữ nhỏ có độ cao 1 đơn vị, con chữ “t” cao 1,5 đơn vị. Trong một số tiết luyện Tiếng Việt sau khi có vần chứa các con chữ đó theo cỡ chữ nhỏ thì học sinh sẽ biết ngay. Làm như vậy, học sinh vừa nắm chắc cấu tạo vần, vừa được làm quen với chữ viết thường cỡ nhỏ trong vần đó. Để thực hiện tốt việc này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo trong cách giới thiệu và điều quan trọng hơn giáo viên phải nắm chắc mẫu chữ viết thường và viết hoa (theo cỡ chữ nhỏ). Cụ thể: + Nếu kể chiều cao của con chữ thấp nhất không kể các dấu phụ trên các con chữ ấy (như các con chữ a, ă, â, c, e, ê) là đơn vị chiều cao của chữ và lấy dòng kẻ dưới cùng của khuông kẻ vở làm dòng chuẩn thì các chữ viết thường có các độ cao là vị trí trên khuông kẻ như sau: 1 đơn vị : a, ă, â, c, e, ê, m, o, ơ, u, ư, v, x. 1,25 đơn vị : r, s. 1,5 đơn vị : t. (các chữ 1 đơn vị 1,25 đơn vị và 1,5 đơn vị trên đều viết trên dòng chuẩn ) 2 đơn vị: d, đ (với 2 đơn vị trên dòng chuẩn) p, q (với 1 đơn vị trên và 1 đơn vị dưới dòng chuẩn) 2,5 đơn vị : b, h, k, l ( với 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn) g, y (với 1 đơn vị trên và 1,5 đơn vị dưới dòng chuẩn) + Các chữ hoa đều có độ cao 2,5 đơn vị trên dòng chuẩn trừ g và y có độ cao 4 đơn vị, với 2,5 đơn vị ở trên và 1,5 đơn vị ở dưới dòng chuẩn. Từ bài 96 phần học vần, trong các giờ luyện Tiếng Việt, giáo viên có thể giúp học sinh so sánh độ cao, độ rộng của chữ viết thường cỡ nhỏ cũng như kỹ thuật viết chữ. Nhưng giáo viên chú ý không nên đi sâu phân tích - nhận diện mà ở đây tôi chỉ muốn với hình thức giáo viên giới thiệu cho học sinh là chính, tránh làm mất nhiều thời gian của tiết học. Như vậy, qua các bước giới thiệu đó, phần nào học sinh đã biết về cỡ chữ nhỏ để rồi khi chuyển sang viết chính tả học sinh không còn bỡ ngỡ, lúng túng về độ cao các con chữ cũng như kỹ thuật viết. b) Tập chép và viết chính tả : Khi chúng ta làm tốt việc giới thiệu chữ viết thường cỡ nhỏ kết hợp với sự bao quát, sự chỉ bảo nhiệt tình của giáo viên trong giờ chính tả, nhìn chung học sinh viết chính tả sẽ không bị lúng túng về cách viết chữ. Nhưng cũng không thể tránh khỏi một số trường hợp học sinh viết không đúng cỡ chữ, chữ chưa đều, chưa đẹp. với những trường hợp này giáo viên cần phải hướng dẫn tỉ mỉ để các em viết đúng mẫu, có biện pháp để giúp các em khắc phục nhược điểm. Với những học sinh yếu, tôi đã áp dụng việc viết mẫu trong một số bài chính tả của những tuần đầu ở mỗi bài chính tả tôi viết mẫu cho các em một câu văn hoặc một dòng thơ. Viết thật ngay ngắn và đẹp cho các em quan sát. Đến khi viết bài tôi yêu cầu các em nhìn theo mẫu rồi viết (lưu ý viết thật tròn trĩnh) kể cả trong bài tập chép hay nghe - viết tôi đều làm như vậy, tăng cường viết mẫu hướng dẫn vào buổi luyện Tiếng Việt hay tiết tự học chỉ sau một tuần làm như vậy tôi thấy chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Đặc điểm của học sinh tiểu học là rất hay bắt chước và bắt chước cũng rất nhanh, hơn nữa ở lớp Một các bài chính tả hầu như là tập chép nên tăng cường việc tri giác chữ viết bằng thị giác cho học sinh thì việc viết mẫu của giáo viên không những giúp cho các em viết đẹp mà còn giảm đáng kể tình trạng mắc lỗi. Để làm tốt việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có ý thức luyện chữ và không phải chỉ ở giờ chính tả, tập viết mà tất cả các giờ học khác đòi hỏi chữ viết trên bảng của giáo viên thật sự mẫu mực. c) Hướng dẫn trình bày bài chính tả: Việc trình bày bài chính tả của học sinh ở những bài đầu là rất khó. Học sinh không biết cách trình bày như thế nào cho đúng chứ chưa nói gì trình bày cho đẹp, từ cách ghi tên bài viết rồi đến trình bày nội dung bài viết. Ở đây tôi xin được trình bày cách làm mà tôi đã thực hiện và thấy có hiệu quả như sau: * Cách ghi thứ, ngày - tháng - ghi tên môn - ghi tên bài viết: Tôi luôn luôn chú ý đến cách trình bày bảng của mình đặc biệt trong giờ chính tả. Khi hướng dẫn học sinh viết vở, tôi đưa ra quy định chung cho học sinh của lớp mình. + Cách ghi thứ - ngày - tháng: chữ “Thứ” cách lề vở 1 ô + Cách ghi tên phân môn: “Chính tả” cách lề 4 ô + Cách ghi tên bài: Cách ghi tên bài không phải là đến khi viết chính tả giáo viên mới giới thiệu cho học sinh. Với tôi, ngay trong các bài học vần, trong các môn học khác khi ghi tên bài tôi luôn chú ý trình bày làm sao cho đúng, cho khoa học và đẹp mắt tức là viết đúng và trình bày cân đối trên bảng. Đặc biệt trong giờ học “Thủ công” chúng ta giáo dục học sinh cái đẹp của hình ảnh, của cách trình bày (bố cục, khoảng cách) hay sự khéo léo, óc sáng tạo của học sinh. Vì thế, khi ghi tên bài vào vở tổng hợp, tôi kết hợp hỏi học sinh tại sao lại trình bày như vậy? Ví dụ: Bài 24: Phân môn Thủ công. Giáo viên trình bày bảng: Thứ ngàythángnăm Thủ công Cắt, dán hình vuông - Giáo viên hỏi: Tại sao không viết chữ “Cắt” vào sát lề hoặc vào giữa bảng? - Học sinh: viết như vậy không đẹp. Giáo viên phải cho học sinh thấy được cái đẹp ở đây không những chỉ về chữ viết mà còn cả về cách trình bày. Từ đó hình thành cho học sinh cách trình bày bài một cách khoa học và đẹp mắt. Cách trình bày đó được tôi nhắc nhở xen kẽ trong các bài học của môn học khác. Đến khi viết chính tả, tôi chỉ cần lưu ý học sinh là các em có thể tự ước lượng và trình bày vào vở của mình (có thể chưa thật cân đối) và dần dần trở thành thói quen, được thực hành nhiều lần các em sẽ có kỹ năng trình bày bài đúng, đẹp và khoa học. Đối với những học sinh yếu, tôi sẽ chỉ và hướng dẫn các em ở một số bài đầu tiên về cách viết, viết cách lề khoảng mấy ô. Sau đó yêu cầu học sinh tự ước lượng, tự thực hành. * Cách trình bày đoạn văn, đoạn thơ: Nếu cứ để đến khi viết chính tả giáo viên hướng dẫn học sinh cách trình bày một đoạn văn hay một khổ thơ, bài thơ thì thật là khó khăn trong một tiết học mà hiệu quả lại không cao, chắc chắn sẽ có nhiều em trình bày sai, đặc biệt là viết đoạn văn hay khổ thơ lục bát. Vì vậy, trong các bài học vần, khi đưa ra đoạn văn, đoạn thơ (khổ thơ) ứng dụng tôi luôn chú ý cách trình bày đoạn ứng dụng đó trên bảng phụ hoặc bảng lớp giới thiệu cho học sinh hiểu cách trình bày từng bài đó. Cụ thể : Ví dụ1: Dạy bài 78: uc – ưc (Tiếng Việt 1 – Tập 1) Đoạn thơ ứng dụng : Con gì mào đỏ Lông mượt như tơ Sáng sớm tinh mơ Gọi người thức dậy? Ở đây, giáo viên giúp học sinh hiểu: + Tất cả các chữ đầu mỗi dòng thơ phải viết hoa con chữ đầu tiên (chữ viết), in hoa con chữ đầu tiên (chữ in). + Chữ đầu các dòng thơ phải thẳng đều nhau. + Cuối đoạn thơ phải có dấu chấm. Ví dụ 2: Dạy bài 74: uôt - ươt (Tiếng Việt 1 – Tập 1) Đoạn thơ ứng dụng: Con Mèo mà trèo cây cau Hỏi thăm chú Chuột đi đâu vắng nhà Chú Chuột đi chợ đường xa
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_mot_viet_dung_chinh.doc