SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi

SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi

 Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường, hạn chế được những đối tượng HS yếu kém về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Thế nhưng thực tế trong các trường THPT hiện nay một bộ phận học sinh cá biệt dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có và năm nào cũng có.

Sau nhiều năm công tác ở huyện miền núi gắn bó với học sinh đa số là người dân tộc thiểu số và chủ nhiệm lớp có nhiều học sinh cá biệt. Sau khi quan sát một cách có hệ thống về học sinh cá biệt ở các lớp ở bậc THPT và trong lớp chủ nhiệm, bản thân tôi gặp không ít đối tượng học sinh cá biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi hỏi trong quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả được.

Qua tìm tòi học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên các tạp chí giáo dục, trên truyền hình, vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm lớp bản thân tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm qua sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi.

 Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong muốn được góp một phần nhỏ bé của mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp phần nâng cao hơn nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay đặc biệt là những trường nằm trên địa bàn miền núi mà phần đa học sinh là người dân tộc thiểu số như trường THPT Quan Hóa .

 

doc 10 trang thuychi01 7982
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. Mở đầu
 1.1 Lí do chọn đề tài
	Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường, hạn chế được những đối tượng HS yếu kém về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Thế nhưng thực tế trong các trường THPT hiện nay một bộ phận học sinh cá biệt dường như trường nào cũng có, lớp nào cũng có và năm nào cũng có.
Sau nhiều năm công tác ở huyện miền núi gắn bó với học sinh đa số là người dân tộc thiểu số và chủ nhiệm lớp có nhiều học sinh cá biệt. Sau khi quan sát một cách có hệ thống về học sinh cá biệt ở các lớp ở bậc THPT và trong lớp chủ nhiệm, bản thân tôi gặp không ít đối tượng học sinh cá biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi hỏi trong quá trình giáo dục phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả được.
Qua tìm tòi học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục trên các tạp chí giáo dục, trên truyền hình, vận dụng vào quá trình công tác chủ nhiệm lớp bản thân tôi cũng rút ra được một vài kinh nghiệm qua sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi.
 Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong muốn được góp một phần nhỏ bé của mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo dục học sinh góp phần nâng cao hơn nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay đặc biệt là những trường nằm trên địa bàn miền núi mà phần đa học sinh là người dân tộc thiểu số như trường THPT Quan Hóa .
 1.2 Mục đích nghiêm cứu
Tại nhà trường THPT nói chung và tại trường THPT Quan Hóa nói riêng hiện nay sự cải cách từ nội dung sách giáo khoa cũng như nâng cao phương pháp giảng dạy của từng bộ môn cũng nhằm vào mục tiêu rèn luyện cho học sinh có sự phát triển toàn diện. Tuy nhiên với xu thế phát triển của xã hội, học sinh không chỉ nhận được sự tác động tích cực từ giáo viên mà các em còn nhận được nhiều sự tác động khác từ phía bạn bè, gia đình và xã hội [2] . Chính sự tương tác của nhiều hình thức tác động đó đa số các em có sự phát triển rất tích cực vê thể chất, tri thức và thể lực. Bên cạnh đó cũng có một số em lại phát triển theo hướng ngược lại những học sinh này có nhiều biểu hiện hết sức bất thường và phức tạp và được gọi là “ cá biệt”mà đối tượng chính ở đây tôi muốn đề cập đến là học sinh cá biệt là người dân tộc thiểu số
 Đối với học sinh “cá biệt” này chúng ta có thể giáo dục các em như thế nào là hợp lí? Cách thức nào có thể hướng các em trở về với sự phát triển bình thường? đây là những câu hỏi mà nhiều nhà sư phạm đang quan tâm tìm câu trả lời.
 Trong quá trình tham gia giáo dục học sinh tại trường THPT Quan hóa cụ thể là ở lớp chủ nhiệm tôi có tiến hành tìm hiểu và có được một số kinh nghiệm trong giáo dục học sinh cá biệt do hoàn cảnh gia đình gây ra để từ đó áp dụng những biện pháp này cho những học sinh cá biệt của các lớp khác trong phạm vi các trường THPT miền núi như trường tôi.
 1.3 Đối tượng nghiên cứu
 Đề tài này tôi chủ yếu chỉ nghiên cứu những đối tượng là học sinh cá biệt ở trường THPT là người dân tộc thiểu số mà một trong những nguyên nhân là do hoàn cảnh gia đình các em gặp phải những biến động lớn như : mồ côi bố hoặc mẹ do nghiện ma túy, do tai nạn mà người còn lại đi lập gia đình mới .Dẫn tới việc các em không được quan tâm và trở nên cá biệt. Còn lại một số trường hợp là do các tác động bên ngoài xã hội, và do chính bản thân các em.
 1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, bao gồm: các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt, giáo trình, luận văn, sách tham khảo, tạp chí và các website làm cơ sở khoa học cho đề tài nghiên cứu, tài liệu về tâm lí lứa tuổi.
- Phương pháp điều tra cơ bản
PP điều tra: Điều tra bằng cách trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, gặp gỡ học sinh, phương pháp tổng hợp số liệu.
Nội dung điều tra: Điều tra thực trạng tình hình học sinh cá biệt ở trường THPT Quan Hóa
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
 Tiến hành thực nghiệm ở trường THPT Quan Hóa 
 2. Nội dung
 2.1. Cơ sở lí luận
 2.1.1 Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi.
 Ở lứa tuổi các em, lứa tuổi THPT đang có sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý, việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự hiểu biết tương ứng cộng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn nhận được sự tư vấn kịp thời của cha mẹ khi ở trong trang thái thiếu cân bằng ấy, có em không được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại được quá chiều chuộng... Từ sự khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt trong học sinh và chính một bộ phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm lớp. Những biểu hiện cá biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt hình thức cũng như mức độ nên GVCN lớp cũng rất khó trong việc phát hiện và có biện pháp xử lý thích hợp [1].
 Thông thường trong khi làm công tác chủ nhiệm lớp, GVCN thường quan tâm đến những đối tượng học sinh cá biệt nổi trội mà ai cũng nhìn thấy được, từ đó GVCN tìm hiểu tính cách cá biệt của các em do những nguyên nhân nào để có hướng giáo dục thích hợp. Có những trường hợp học sinh cá biệt nhưng không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa có được phương pháp giáo dục thích hợp.
	Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác nhau làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu hiện khác nhau như vậy. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta, không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ thành công [1].
 2.1.2. Đặc điểm của học sinh khu vực miền núi
	Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT Quan Hóa – Thanh Hóa, tôi có thể tóm tắt về một số đặc điểm của HS THPT miền núi như sau:
- Về điều kiện kinh tế xã hội: Đa phần HS là nông thôn thu nhập thấp, kinh tế không ổn định, dân cư sống ở những vùng có địa hình khó khăn, sống xa nhau, xa trường. Điều kiện phương tiện thiếu thốn nên đi lại khó khăn, gây cản trở không ít đến việc học tập của các em.
- Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do đa phần HS là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học hiện đại nên ngôn ngữ tiếng việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em còn giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm các thuật ngữ khoa học nhiều khi chưa chính xác.
- Về khả năng tư duy của HS: Thường tư duy chậm, Các em thường xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ riêng lẻ, đơn giản. Các em quen tư duy cụ thể, bắt chước, nên trong cuộc sống khi gặp những trở ngại khó khăn các em rất dễ buông xuôi đầu hàng.
- Về nhân cách trong giao tiếp: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm yêu ghét rõ ràng. Lòng tự trọng cao, bản tính thật thà và có trách nhiệm trong công việc. Nhưng còn rụt rè, ít nói và lòng tự ti dân tộc cao [3].
 Chính vì vậy, rèn luyện cho HS khu vực miền núi kĩ năng,cách sống cách ứng xử, cách thực hiện nội quy trường lớplà một vấn đề khó khăn. Mà đối với những học sinh cá biệt còn khó khăn gấp bội
 2.2 Thực trạng của học sinh dân tộc thiểu số cá biệt ở trường THPT Quan Hóa
	Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác- Lê nin: "Bản chất con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội"[1]. như vậy những hiện tượng học sinh cá biệt được nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất định. Có thể rút ra được một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản sau đây:
 2.2.1 Nguyên nhân khách quan:
 2.2.1.1 Nguyên nhân về phía gia đình:
 Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài nhất, chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội
 Đặc biệt ở khu vực huyện Quan Hóa đa số đều là người dân tộc thiểu số,do tập tục và thói quen nên ít quan tâm đến con cái, ít liên hệ với giáo viên chủ nhiệm, ngoài ra bộ phận không nhỏ phụ huynh chưa biết cách giáo dục con em, thả con em mình tự do, học sinh không sợ và tôn trọng bố mẹ, phụ huynh mải làm ăn ở xa không quản lí con cái phó mặc con em cho nhà trường, thầy cô. Còn không ít những gia đình bố mẹ sa vào các tệ nạn buôn bán , sử dụng ma túy, HIV/AIDS. Học sinh vi phạm bị đình chỉ ở nhà phụ huynh không quản nổi, phụ huynh giao lại cho nhà trường và GVCN quản lí, vậy cùng một lúc hơn năm trăm học sinh nếu không có sự chung tay của phụ huynh thì công việc này thật sự khó khăn. Số ít học sinh thì trong tâm trạng sẵn sàng bỏ học nên các em rất bất cần [4].
 2.2.1.2 Nguyên nhân về phía nhà trường :
	Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không phải là dễ, trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng là ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp nên đâu đó cũng xúc phạm học sinh, đối xử thiếu công bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt, cáu giận, sĩ nhục học sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ phía học sinh.
 2.2.1.3 Nguyên nhân về phía môi trường xã hội:
	Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình dịch vụ như Internet, bi a, caraoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi a, đánh bạc... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật.
 Quan hóa, nằm ở vị trí miền núi thuộc khu vực 135, các em vừa sống trong một điều kiện gia đình khó khăn, lại tiếp xúc với cách sống của một số người sống theo kiểu thành thị, nảy sinh ra hiện tượng học đòi, chính vì thế một bộ phận HS mà theo tôi là nhạy cảm với vấn đề xã hội này các em dễ bị lôi cuốn bởi những thói hư, tật xấu của môi trường xã hội chung quanh là điều tất yếu.
 2.2.1.4 Nguyên nhân từ phía giáo viên chủ nhiệm:
 Việc quản lý cũng như giáo dục học sinh còn lỏng lẻo, chưa thật sự nghiêm khắc nên việc rèn luyện phẩm chất đạo đức và việc học tập của học sinh chưa đi vào nề nếp tốt. Mặt khác nhiều giáo viên chủ nhiệm chưa thật sự nhiết tình, chưa tận tâm với học sinh, chưa dành nhiều thời gian quan tâm, tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng của học sinh nên chưa kịp thời nắm bắt và động viên khích lệ được từng học sinh vươn lên trong học tập và rèn luyện đạo đức. Qua nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu và theo dõi, tôi thấy vai trò đặc biệt to lớn của Giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là linh hồn của lớp, phương pháp chủ nhiệm ảnh hưởng rất lớn tới nề nếp của lớp và có thể là định hướng tương lai cho các em. Nhưng cũng hơi đáng buồn là nhiều giáo viên chủ nhiệm chỉ lo cho gia đình, lo cho bản thân,  Mà quên đi mất việc chăm bẵm cho các em. Tôi thấy các em cũng như cái cây non, việc giáo viên không quan tâm, không uốn nắn hàng ngày thì sẽ cho ra các sản phẩm không phục vụ cho nhu cầu xã hội được [2].
 2.2.2 Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
 Đại bộ phận học sinh trong trường đều rất ngoan có ý thức học tập tốt, song do chất lượng đầu vào thấp, việc giáo dục ở cấp dưới còn chưa đồng bộ, do điều kiện học sinh ở trường hầu hết là người dân tộc thiểu số như người Thái, người mông, người Mường ở những bản, làng xa xôi khoảng cách đến trường hơn 50 km, hầu hết các em đều ở trọ không được sự quản lí, kèm cặp của gia đình. Công việc học tập và sinh hoạt các em phải một mình lo liệu. Ở các xóm trọ các em tụ tập đàm đúm, nợ tiền nhà, tiền ăn ảnh hưởng xấu tới dư luận xã hội, tình trạng học sinh chây lười trong học tập, liên tục quấy rối, làm ồn khi thầy cô đang giảng bài trong khi những học sinh khác đang tập trung lắng nghe hay có những học sinh dùng lời lẽ, thái độ vô lễ với giáo viên, hiện tượng học sinh cố tình phá hoại tài sản của trường, lớp nhưng không bạn nào dám lên tiếng can ngăn hay học sinh nghiện điện tử. Các em học sinh khối 12 sắp thi tốt nghiệp, nhưng khi giáo viên ôn tập cho các em thì các em tìm cách trốn học, phá rối giờ học để được nghỉ, để trốn học đi chơi...
 Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy, tôi tìm ra những phương pháp tối ưu để từng bước cảm hoá giáo dục các em. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục HS cá biệt mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này
 2.3 Các biện pháp và tổ chức thực hiện
 Ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động giáo dục thông qua các tiết sinh hoạt lớp, 15 phút đầu buổi, các hoạt động ngoại khoá ...để giáo dục hạnh kiểm học sinh. Tuy vậy đối với học sinh cá biệt đặc biệt là học sinh người dân tộc thiểu số ngoài những biện pháp giáo dục chung, GVCN cũng cần có biện pháp giáo dục đặc thù.
	Việc giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt không đơn thuần là nhìn nhận những biểu hiện bên ngoài của các em mà cần phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các hành động thiếu chuẩn xác, khi đã xác định được nguyên nhân chúng ta mới tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp. 
 2.3.1.Biện pháp giáo dục bằng tâm lý
	Trong nền giáo dục hiện tại, quan hệ giữa giáo viên và học sinh đã được thay đổi cơ bản, thầy trò ngày nay có tình cảm thân mật gắn bó hơn, học sinh có thể thoải mái trao đổi mọi vấn đề có như vậy thì chúng ta mới thực hiện tốt được nhiệm vụ giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì mới biết được những tâm tư nguyện vọng của các em chúng ta mới có những biện pháp giáo dục thích hợp được.
	Đối với học sinh cá biệt việc gần gũi với các em quả là một vần đề không đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị thì khó mà có thể gần gũi với các em được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lới xúc phạm đến các em ... đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em thường xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp.
	Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Chú ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa được các em, sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu người GVCN đó hiểu và nói được ngôn ngữ của dân tộc( Tiếng thái,tiếng mông.....). Khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em.
	Ví dụ: Em Cao Tùng Lâm lớp 12A4 do tôi chủ nhiệm là một học sinh học rất yếu, em thường xuyên không thuộc bài cũ và điểm rất kém ở các bài kiểm tra, trong giờ học em luôn ngủ hoặc dùng điện thoại, em chán nản và có ý định bỏ học nhưng vì gia đình ép nên em đành phải đi học. Em tỏ ra lầm lì, mặc cảm với bạn bè, với thầy cô, xa lánh mọi người, nhất là em còn có thái độ không hợp tác với GVCN.
	Nhiều lần tôi sử dụng phương pháp phê bình trước lớp, buộc viết bản cam kết, và mức mạnh hơn là đình chỉ rồi mời phụ huynh đến trao đổi. Nhưng với những biện pháp đấy chỉ đạt hiệu quả tức thời, một thời gian sau em lại vẫn tái phạm như cũ. Sau nhiều đắn đo, suy nghĩ với học sinh như thế này tôi đến tận nhà tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, gặp gỡ phụ huynh, học sinh và nhận thấy rằng hoàn cảnh của em rất đặc biệt: Bố buôn bán và sử dụng ma túy rồi qua đời vì bệnh HIV/AIDS, còn mẹ đi thêm bước nữa, bản thân em phải sông nhờ với hai bác, em phải thường xuyên phục vụ công việc kinh doanh của hai bác là rửa bát dọn dẹp nhà hàng, em tiếp xúc với đủ các loại người trong xã hội.Em con là người dân tộc thái lại ít có sự quan tâm của gia đình nên nhận thức của em về cuộc sống chưa đầy đủ dẫn đến cá biệt trong lớp học. Bước đầu tôi sử dụng vốn tiếng thái đã học để giao tiếp tạo sự gần gũi tin tưởng ở em, sau đấy tôi động viên và đưa ra những tấm gương có hoàn cảnh giống em vượt khó thực tế ở trường. Mỗi buổi đên lớp tôi thường dành thời gian quan tâm để ý thái độ của em để kip thời điều chỉnh những vi phạm dù là nhỏ nhất. Sau 1 tháng em đã có sự tiến triển và tôi cũng không quên tuyên dương sự tiến bộ của em trước lớp. Cuối năm học em đã có thành tích hơn hẳn năm trước.
 Trong lớp tôi chủ nhiệm không chỉ có em Lâm mà còn có hơn 5 em nữa có hoàn tương tự vì khu vực chúng tôi công tác đặc thù như vậy, sau khi em Lâm có sự tiến bộ tôi tiếp tục áp dụng với các em con lại và kết quả cũng tiến triển rõ ràng, cuối năm các em đều được xếp loại hạnh kiểm khá, học lực trung bình, có 2 em còn đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.
 2.3.2. Biện pháp giáo dục theo nhóm
	Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em đều trả lời một câu chung nhất “không biết” đối với những em có quan hệ gần gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe doạ của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
	Về vấn đề này tôi chia mỗi học sinh cá biệt một nhóm cùng với những học sinh khác. Sau hàng tuần lấy điểm thi đua của cả nhóm, nhóm nào thấp điểm nhất bị phạt quét vệ sinh cả tuần. Với phương pháp này trưởng nhóm có trách nhiệm nhắc nhở vận động các bạn trong nhóm thực hiện nội quy của trường của lớp, và cũng kịp thời phê bình nhắc nhở và đối tượng GVCN hướng tới ở đây là sự tích cực, và ý thức của học sinh cá biệt.
 2.3.3 Kết hợp với phụ huynh học sinh:
	Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh [2].
	 Trên địa bàn miền núi như huyện Quan hóa, địa hình đi lại khó khăn nhiều gia đình còn không quan tâm đến học sinh do đó GVCN phải trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh cá biệt thì lại có phụ huynh cá biệt : một là không quan tâm đến việc học của con em, hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình...thường những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có giấy mời riêng cùng không đến. Đối với đối tượng này GVCN cần nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ ngại nói những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em, tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
 2.3.4 Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn
	Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản kháng đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. 
 Ví dụ như học sinh lớp tôi khi tuyển sinh điểm đầu vào so với các lớp khác là thấp hơn nên khi trao đổi với giáo viên bộ môn tôi tìm ra nh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_la_nguoi_dan.doc