SKKN Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh Lớp 4B trường Tiểu học Trưng Vương

SKKN Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh Lớp 4B trường Tiểu học Trưng Vương

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ

 Học sinh tiểu học lứa tuổi từ 6 đến 10 tuổi các em rất nghịch, hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm của từng nhóm đối tượng học sinh cũng khác nhau. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của việc học. Các em đi học phần lớn là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học (vì đi học được cô khen, được chơi cùng bạn vv ). Do đó ý thức tự giác học tập của các em chưa có (với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình) nên các em thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn đến học yếu, chán học và bỏ học

 Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tính tò mò phát triển, các em thường ham thích cái

mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến bộ.

 Ở lứa tuổi này tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn và thích đi học hơn.

 Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó trong nhà trường chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục đối với từng đối tượng trẻ em, định hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động giáo dục, dạy học và vui chơi của trẻ một cách phù hợp nhất, tạo một bầu không khí, một môi trường thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích và trông đợi được đến trường. Xem trường lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. Chúng ta không thể áp dụng cách thức giáo dục giống như trung học cơ sở hay trung học phổ thông cho học sinh tiểu học. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng ta cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập khuôn hình mẫu phát triển của học sinh trong giai đoạn đó mà còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như những tác động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có những cách thức giao dục thích hợp nhất cho các em để các em có thể phát triển một cách hài hoà trong học tập, nhận thức và hành vi khi các em tham gia vào các mối quan hệ với cộng đồng xã hội trong tương lai.

 Mục tiêu giáo dục và đào tạo của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành cho mọi công dân phải có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành tự chủ, năng lực sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Tạo cho thế hệ trẻ theo hướng toàn diện, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần như thời đại hiện nay.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiển của đất nước trong giai đoạn hiện nay thì

công tác vận động học sinh bỏ học trở lại lớp và duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần là vấn đề cần thiết phải tiến hành thường xuyên liên tục. Đó là tiền đề khơi dậy sự phát triển khả năng tự học vốn có của người Việt Nam hình thành cho các em những kiến thức khoa học độc lập, sáng tạo nâng cao năng lực phát triển và tự giải quyết vấn đề đem lại niềm tin hứng thú cho các em trong mọi công việc. Giúp cho học sinh chuyển từ thói quen ỷ lại, thụ động chán học sang một trạng thái chủ động biết cách tìm lại những điều đã quên và nắm lại kiến thức trong nhà trường thấy được nhu cầu cần thiết của việc học và phát huy tìm năng sáng tạo của bản thân.

 

doc 18 trang hoathepmc36 01/03/2022 8501
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh Lớp 4B trường Tiểu học Trưng Vương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
  PHẦNTHỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. Lí do lí luận
 	Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Trong nhiều năm qua Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn cho tương lai của đất nước.
     	 Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu kiến thức kĩ năng, kĩ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu học sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, biết viết hoặc đọc viết không thông thạo mà đã nghỉ học. Tất cả đều là sản phẩm của nhà trường. 
 2. Lý do thực tiển
Hiện nay, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập  của học sinh nói riêng và trong việc thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, một số từ phương xa đến xã Bình Hòa tạm trú, đa phần là làm thuê, vì cuộc sống mưu sinh họ gửi con em vào trường tiểu học Trưng Vương để học. Chính vì mãi lo cho kinh tế gia đình một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của các em. Nên việc các em nghỉ học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi.
 	Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm bản thân tôi luôn suy nghĩ và đặt cho mình câu hỏi: “Làm thể nào để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần?" Đây cũng là một vấn đề giúp các em tiếp thu bài đầy đủ, có kết quả tốt trong học tập và tiếp tục con đường học vấn của mình.
	 Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, là một giáo viên giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp nhiều năm, với sự trăn trở, mong muốn, cần phải làm gì để thực hiện có hiệu quả, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục? Quá trình dạy học và giáo dục sẽ mang lại điều gì cho trẻ, đúc rút được kinh nghiệm gì, có sáng kiến gì góp phần vào cải tiến phương pháp dạy học và giáo dục? Với lòng yêu nghề mến trẻ, tinh thần hăng say học tập, rèn luyện, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, tích cực tham gia phong trào dạy học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh ở trường Tiểu học, tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài : "Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh lớp 4B trường TH Trưng Vương"
 3. Đối tượng nghiên cứu
 - Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh lớp 4B trường TH Trưng Vương.
 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 
	 - Tập trung nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần cho học sinh lớp 4B trường TH Trưng Vương, trong năm học 2018 – 2019.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
1. Mục tiêu:
	- Thấy được tầm quan trọng của công tác vận động học sinh bỏ học trở lại lớp và công tác duy trì sĩ số của lớp, từ đó tìm hiểu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần.
 2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học – giáo dục, công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 4B thuộc trường TH Trưng Vương.
- Đề xuất một số giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần .
 3. Phương pháp nghiên cứu
 a) Nhóm phương pháp lý luận
	- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
	- Phương pháp điều tra.
	- Phương pháp quan sát.
	- Phương pháp phân tích .
 c) Phương pháp thống kê toán học
	- Phương pháp thống kế .
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
    Học sinh tiểu học lứa tuổi từ 6 đến 10 tuổi các em rất nghịch, hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình. Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm của từng nhóm đối tượng học sinh cũng khác nhau. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của việc học. Các em đi học phần lớn là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học (vì đi học được cô khen, được chơi cùng bạn vv). Do đó ý thức tự giác học tập của các em chưa có (với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình) nên các em thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn đến học yếu, chán học và bỏ học 
 Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tính tò mò phát triển, các em thường ham thích cái 
mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, không thay đổi hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến bộ.
 Ở lứa tuổi này tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em được thầy cô ân cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn và thích đi học hơn.
     Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó trong nhà trường chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục đối với từng đối tượng trẻ em, định hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động giáo dục, dạy học và vui chơi của trẻ một cách phù hợp nhất, tạo một bầu không khí, một môi trường thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích và trông đợi được đến trường. Xem trường lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. Chúng ta không thể áp dụng cách thức giáo dục giống như trung học cơ sở hay trung học phổ thông cho học sinh tiểu học. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng ta cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc, dập khuôn hình mẫu phát triển của học sinh trong giai đoạn đó mà còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như những tác động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có những cách thức giao dục thích hợp nhất cho các em để các em có thể phát triển một cách hài hoà trong học tập, nhận thức và hành vi khi các em tham gia vào các mối quan hệ với cộng đồng xã hội trong tương lai.
 	Mục tiêu giáo dục và đào tạo của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành cho mọi công dân phải có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành tự chủ, năng lực sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Tạo cho thế hệ trẻ theo hướng toàn diện, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần như thời đại hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiển của đất nước trong giai đoạn hiện nay thì 
công tác vận động học sinh bỏ học trở lại lớp và duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần là vấn đề cần thiết phải tiến hành thường xuyên liên tục. Đó là tiền đề khơi dậy sự phát triển khả năng tự học vốn có của người Việt Nam hình thành cho các em những kiến thức khoa học độc lập, sáng tạo nâng cao năng lực phát triển và tự giải quyết vấn đề đem lại niềm tin hứng thú cho các em trong mọi công việc. Giúp cho học sinh chuyển từ thói quen ỷ lại, thụ động chán học sang một trạng thái chủ động biết cách tìm lại những điều đã quên và nắm lại kiến thức trong nhà trường thấy được nhu cầu cần thiết của việc học và phát huy tìm năng sáng tạo của bản thân.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 
	Giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và nhà nước quan tâm xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Hàng năm gần đến mùa tựu trường là tất cả giáo viên xuống đường làm công tác điều tra, huy động các em đến lớp kể cả những em có hoặc không có điều kiện. Như chúng ta biết, trong những năm gần đây tệ nạn xã hội phát triển ngày càng nhiều tình trạng đạo đức của một bộ phận học sinh ngày càng sa sút, việc học của một số ít học sinh giảm, tính tự giác học tập của các em có chiều hướng giảm và dẫn đến bỏ học. Trong khi đó nhu cầu đòi hỏi của xã hội ngày càng cao. Với những thực tế đó bên cạnh còn có nhiều nguyên nhân khác như sau:
 + Sự nhận thức của cha mẹ các em về động cơ học chưa quyết đoán. 
 (Khi giáo viên đến vận động thì cha mẹ nói để hỏi ý nó coi chịu học không ). Một số gia đình còn đặt thẳng vấn đề với giáo viên vận động về dụng cụ học tập, quần áo, phương tiện đi lại, sau khi đáp ứng những yêu cầu đó xong thì con họ lại tiếp tục nghỉ nữa.
 + Hoàn cảnh kinh tế, điều kiện đi lại, nơi ở (gia đình nghèo phải đi nơi khác kiếm sống hay nhà quá xa trường, không phương tiện, đường xá cầu cống đặc biệt ở thôn Sơn Trà và các em gần chân đèo Chư Bao.
 + Sự bùng nổ về thông tin báo chí, điện tử ( phim ảnh đồi trị, trò chơi thiếu lành mạnh gần đây nhất là game. Từ đó cuốn hút các em tham gia vào con đường tệ nạn xã hội dẫn đến lười học chán học rồi bỏ học) 
Trường TH Trưng Vương nằm trên địa điểm giáp ranh thị trấn Buôn Trấp là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện Krông Ana, bên cạnh những mặt tích cực thì còn rất nhiều tác động tiêu cực đến các em như các quán internet, nhiều trò chơi lôi cuốn các em Địa bàn kéo dài cũng là một khó khăn trong quản lí học sinh, nhất là sau giờ tan trường.
Bên cạnh đó, một số học sinh còn có tính ham chơi,chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập nên dẫn đến việc tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm hoàn thành kế hoạch đề ra còn chậm, chưa như mong muốn.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động đến kết quả của công tác chủ nhiệm, có nguyên nhân là chủ quan như điều kiện kinh tế của gia đình học sinh; độ tuổi của học sinh; địa bàn sinh sống của học sinh. Cũng có những nguyên nhân là khách quan như: nhận thức của gia đình học sinh đối với việc học của con cái; tính cách ham chơi và nhận thức chậm của các đối tượng học sinh, địa bàn sinh sống của học sinh luôn tiềm ẩn nhiều trò chơi, lôi kéo, cám dỗ các em tất cả là những yếu tố có tác động lớn đến công tác chủ nhiệm của những giáo viên chủ nhiệm lớp.
Tuy nhiên, đó chỉ là những nguyên nhân từ phía học sinh, còn để làm tốt công tác chủ nhiệm thì chính người giáo viên làm công tác chủ nhiệm ấy mới thật sự là yếu tố có tính tác động quyết định nhất đến sự thành công hay thất bại của công tác chủ nhiệm lớp. Vì thế, người làm công tác chủ nhiệm phải là những người luôn nhiệt huyết, năng động, chuyên cần và luôn có những thay đổi trong quá trình chủ nhiệm để có thể đạt được những kết quả tốt, hoàn thành xuất sắc công tác chủ nhiệm lớp.
   Ngày đầu tiên tôi nhận lớp và sau một tiết làm quen tôi nắm được sĩ số trong lớp là 20 em, trong đó nam 14 em, nữ 6 em. Ấn tượng không phai mờ là các em nhìn tôi rất chăm chú lắng nghe bao điều tôi dặn dò với lớp. Tôi tự hứa với lòng mình cố gắng thực hiện thật tốt công tác chủ nhiệm lớp để tác động tích cực đến nhận thức, suy nghĩ và tình cảm của các em để tập thể lớp 4B trở thành một tập thể lớp Xuất sắc.
 Qua tìm hiểu tôi đã thu thập được kết quả của lớp trong năm học 2017– 2018 
như sau:
          + Tỉ lệ học sinh đi học chuyên cần đạt 91%.
       	+ Tỉ lệ duy trì sĩ số đạt : 98%.  
 	+ Việc chấp hành nội quy trường lớp khá tốt, đạt 98%.
+ Điểm thi cuối kì ở các môn học đánh giá bằng điểm số đa số học sinh có nhiều tiến bộ và cao hơn so với năm học trước nhưng chưa cao. Kết quả các môn học và hoạt động giáo dục:
 -Kết quả cụ thể của lớp năm học: 2017 – 2018 như sau:
Các môn học và hoạt động giáo dục
Các năng lực
Các phẩm chất
T
H
C 
T
 Đ
CCG
T
Đ
C CG
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3
13,6
17
77,3
2
9,1
3
13,6
17
77,3
2
9,1
3
13,6
17
77,3
2
9,1
+ Hoàn thành chương trình lớp học: 20/22
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
 1. Mục tiêu của giải pháp 
 Là nâng cao sự nhận thức về cuộc sống, làm cho mọi người công dân hiểu và biết được tầm quan trọng của việc học góp phần vào việc nâng cao mặt bằng dân trí nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
 Nâng cao năng lực hiệu quả đào tạo, nhằm đảm bảo mỗi học sinh được phát triển toàn diện về trí, đức, thể, mỹ đồng thời hình thành cho học sinh kỷ năng cơ bản, có những hiểu biết ban đầu về khoa học kỹ thuật và hướng nghiệp từ đó tiếp thu những kiến thức mới trong quá trình học tập. 
 2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp
 a, Nội dung:
	Được Ban Giám hiệu giao trọng trách chủ nhiệm, bản thân tôi nhận thấy rằng đó là trách nhiệm lớn, phải xem tập thể lớp là gia đình của mình, học sinh là em, là con của mình. Xuất phát từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm mới để hết tâm trí, tình cảm của mình vào công việc quan trọng này. Từ đó có thể xây dựng được những biện pháp chủ nhiệm có hiệu quả, áp dụng cho tất cả các lớp và áp dụng cho bất cứ năm học nào.
 b, Cách thực hiện giải pháp
Những giải pháp, việc làm cụ thể mà tôi đã và đang áp dụng để làm tốt công tác duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần :
 * Vận động kết hợp hình thức kể chuyện, tình huống:
	Từ trước đến nay, thông thường khi có học sinh có nguy cơ bỏ học thì giáo viên chủ nhiệm nhanh chóng đến nhà "vận động". Đây là một biện pháp được rất nhiều giáo viên chủ nhiệm áp dụng, thậm chí áp dụng một cách nhanh chóng và kịp thời. Tuy nhiên kết quả cuối cùng ra sao? phần lớn là "ký biên bản". Đối với chúng tôi, đến nhà vận động học sinh có nguy cơ bỏ học cũng là một cách mà chúng tôi cũng áp dụng như bao giáo viên chủ nhiệm khác. Tuy nhiên, trước khi đi vận động học sinh, chúng tôi tìm hiểu kĩ nguyên nhân học sinh bỏ học và hoàn cảnh gia đình của học sinh. Từ đó chúng tôi tìm những mẩu chuyện phù hợp với tình huống để lồng ghép khéo léo khi đến nhà vận động học sinh. 
 * Vận động những người có uy tín trong họ hàng cùng vận động
	 Ngoài việc đơn thuần đi vận động gia đình để cho con đi học, chúng ta cũng có thể tìm đến những người có uy tín, học thức trong họ hàng cùng vận động. Bởi họ là những người có sức tác động mạnh, có thể giúp giáo viên chủ nhiệm trong việc vận động các em.
 * Kết hợp bạn thân của học sinh đi vận động
	Lứa tuổi học sinh lớp 4,5 là lứa tuổi biến đổi mạnh mẽ tâm sinh lí, các em rất dễ bị lôi cuốn từ bạn bè. Trên cơ sở này chúng ta khéo léo xây dựng thành hình thức vận động thông qua buổi đi chơi, đi thăm bạn. Đây là một biện pháp không kém phần hiệu quả, nó có sức lôi cuốn mạnh mẽ, thiết thực. Đối với những học sinh không muốn đi học thì việc trao đổi giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh cũng ít mang lại hiệu quả. Tuy nhiên việc đi vận động có kết hợp học sinh, những người bạn thân thì kết quả cũng rất khả quan.
 * Đối với học sinh vắng học đi chơi game
	Game là một trong những thú vui rất bổ ích cho con người. Tuy nhiên nếu lạm dụng game thì trở thành tai hại nghiêm trọng. Bên cạnh đó, game có sức hút mạnh mẽ đối với tất cả những ai đã từng chơi, trong đó có học sinh. Nghỉ học chơi game là một trong những nguyên nhân phổ biến hiện nay làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục cũng như công tác duy trì sĩ số. Các em vắng học nhiều rồi dần bỏ học. Đối với trường hợp này, ngoài việc liên hệ kết hợp với gia đình đến tiệm game kêu gọi các em về trường giáo dục.
 * Đối với học sinh vắng học theo nhóm
	Bỏ học đi chơi theo nhóm cũng là một trong những nguyên nhân rất nguy hiểm, ảnh hưởng rất lớn đến công tác duy trì sĩ số. Nó không chỉ làm giảm một lượng lớn học sinh đi học mà còn có thể gây ra những tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Đối với trường hợp này, tìm hiểu em nào "cầm đầu", hay rủ rê các bạn bỏ học để liên lạc với gia đình cùng hợp tác giải quyết, giáo dục các em. Bên cạnh đó xây dựng kế hoạch "mỗi ngày rước một học sinh đi học". Cách làm này vừa chia tách các đối tượng hay trốn học vừa mang tính cảnh báo răn đe rất lớn. Với cách làm này sẻ mang lại kết quả khả quan. 
 * Đối với học sinh vắng học vì bị bệnh
	Bệnh là một trong những nguyên nhân buộc học sinh phải nghỉ học, điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục cũng như việc duy trì sĩ số. Thông thường khi học sinh bị bệnh, giáo viên thường tiếp nhận thông tin từ gia đình qua điện thoại hay đơn xin nghỉ rồi giải quyết cho nghỉ có phép mà không biết các em bị bệnh như thế nào? Ngoài việc tiếp nhận thông tin, chúng tôi còn đến thăm các em để tìm hiểu, động viên các em và gia đình. Đây là cách làm không chỉ hữu ích về mặt tinh thần giúp các em mau chóng khỏi bệnh mà còn tạo mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên-gia đình-nhà trường. Cách làm này góp phần rất lớn đảm bảo sĩ số lớp,với những đối tượng lợi dụng lấy lý do bị bệnh nghỉ học.
 * Tổ chức các trò chơi giữa các nhóm
	Bên cạnh việc vận động học sinh, thì biện pháp tổ chức các trò chơi là rất quan trọng. Cách này nhằm thu hút học sinh đến lớp, tạo môi trường thân thiện học tập. Cách này cũng được Tổng phụ trách và Ban phụ trách thiếu nhi thực hiện trong toàn trường. Tuy nhiên đối với vai trò là giáo viên chủ nhiệm, có thể sắp xếp thời gian tổ chức thêm các trò chơi giữa các nhóm trong lớp chủ nhiệm của mình ví dụ như: kéo co, đánh cờ, chuyền chanh,... Đây là một trong những cách rất hiệu quả để thu hút học sinh và phát động phong trào bởi các em được chơi thì sẽ không trốn học, nghỉ học đi chơi.
 *Đối với các em học yếu : 
	Tăng cường công tác kiểm diện nắm sát hoàn cảnh gia đình, năng lực học tập của học sinh. Trường tổ chức phụ đạo học sinh yếu, vận động các em trở lại học theo kịp các bạn. Phân công đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ nhau trong học tập.
	Hàng tuần tuyên dương những em học yếu có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập. Thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh yếu để cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt cho các em tham gia phụ đạo. 
	Thường xuyên kiểm tra giám sát học sinh (đặc biệt là đối tượng  học sinh yếu và học sinh cá biệt) để có biện pháp phối hợp giáo dục, giúp đỡ học sinh. Thực hiện sinh hoạt 15 phút đầu giờ và sinh hoạt cuối tuần, nội dung sinh hoạt tập trung chấn chỉnh việc học bài của học sinh, như biểu dương khen ngợi những học sinh tham gia học tập nghiêm túc đầy đủ, phê bình nhắc nhở những học sinh lười học, bỏ học, về nhà không học bài cũ, đến lớp không ghi chép bài  Động viên những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những học sinh yếu nhưng có thái độ học tập tốt . Phân công cho học sinh khá giỏi kèm cặp giúp đỡ những học sinh yếu kém.Thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh đặc biệt là những trường cá biệt, thường trốn học bỏ học để phối hợp giáo dục.
 *Đối với học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: 
	GVCN kết hợp chi hội phụ huynh lớp đến những gia đình lớp mình có con em lao động sớm nhằm tâm tình thuyết phục gia đình dành thời gian học tập cho học sinh. Thông báo những văn bản về chế độ miễn giảm cho cha mẹ học sinh nắm. Kêu gọi hội phụ huynh học sinh giúp đỡ các em tập sách, cặp viết nhằm giúp các em đủ điều kiện đến trường và yên tâm trong học tập. 
 *Đối với gia đình đi làm ăn xa có khả năng dẫn con theo : 
	GVCN nắm danh sách các em có cha mẹ thường xuyên đi làm ăn xa để kịp thời báo BGH tên cha mẹ, địa chỉ cụ thể từng trường hợp để nhà trường kết hợp chính quyền địa phương để quan tâm sâu sát hơn những đối tượng này.Thường xuyên đến gia đình nắm tình hình động viên nhằm hạn chế học sinh bỏ học vì phải theo cha mẹ đi làm ăn xa nhất là các thời điểm sau tết, vụ mùa 
 * Về phía giáo viên chủ nhiệm( GVCN) lớp.
 Là một giáo viên chủ nhiệm lớp phải có trách nhiệm và một nghệ thuật giáo dục , GVCN có vai trò hết sức quan trọng nhằm giúp nhà trường thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh, trong đó có công tác duy trì sĩ số học sinh. Một giáo viên chủ nhiệm tốt không chỉ giúp lớp mình học tốt mà còn biết cách để giúp các học sinh siêng năng học tập đi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_de_duy_tri_si_so_va_dam_bao_chuyen_can.doc