SKKN Một số biện pháp để dạy tốt môn Địa lý lớp 4
Một năm bắt đầu từ mùa xuân
Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ với tư cách là tương lai của đất nước. Tuổi trẻ sẽ làm gì và làm như thế nào trong tương lai? Tất cả phải nhờ vào sự nghiệp giáo dục. Người xây nền tảng đó lại là những người có nhiệm vụ vẻ vang trong sự nghiệp “Trồng người”. Bồi dưỡng cho thế hệ sau là một việc rất quan trọng, cần thiết. Mỗi giáo viên chúng ta nhận thấy: Giáo dục những học sinh vừa có đức vừa có tài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ. Học không chỉ đơn giản đạt đến mục đích có trình độ hiểu biết cao, có kiến thức sâu rộng mà quan trọng hơn là phải thực sự trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Cùng với các môn học khác, môn Địa lí là môn học quan trọng trong chương trình Tiểu học. Ở bậc học này, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc dạy và học môn Tự nhiên Xã hội nói chung và phân môn Địa lí nói riêng là một phần quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn này để góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học. Chương trình Địa lí lớp 4 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu về Địa lí Việt Nam và những nội dung cơ bản về địa hình, dân cư, khí hậu và nền kinh tế xã hội của các vùng miền trong cả nước
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ DẠY TỐT MÔN ĐỊA LÝ LỚP 4 Người thực hiện: Lê Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH và THCS Thị trấn SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Địa lý THANH HÓA, NĂM 2016 A - ĐẶT VẤN ĐỀ Một năm bắt đầu từ mùa xuân Đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ với tư cách là tương lai của đất nước. Tuổi trẻ sẽ làm gì và làm như thế nào trong tương lai? Tất cả phải nhờ vào sự nghiệp giáo dục. Người xây nền tảng đó lại là những người có nhiệm vụ vẻ vang trong sự nghiệp “Trồng người”. Bồi dưỡng cho thế hệ sau là một việc rất quan trọng, cần thiết. Mỗi giáo viên chúng ta nhận thấy: Giáo dục những học sinh vừa có đức vừa có tài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ. Học không chỉ đơn giản đạt đến mục đích có trình độ hiểu biết cao, có kiến thức sâu rộng mà quan trọng hơn là phải thực sự trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí là môn học quan trọng trong chương trình Tiểu học. Ở bậc học này, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc dạy và học môn Tự nhiên Xã hội nói chung và phân môn Địa lí nói riêng là một phần quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn này để góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học. Chương trình Địa lí lớp 4 giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu về Địa lí Việt Nam và những nội dung cơ bản về địa hình, dân cư, khí hậu và nền kinh tế xã hội của các vùng miền trong cả nước Qua nhiều năm giảng dạy khối lớp 4, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh, nên việc dạy và học môn Địa lí còn nhiều bất cập với giáo viên và có phần tẻ nhạt với học sinh. Vì đa số phụ huynh và học sinh đều quan niệm Địa lí là môn học không có tính quyết định nên thường không thích đầu tư cho môn học. Từ trước đến nay, học sinh chỉ được cung cấp các khái niệm Địa lí thông qua giáo viên nên giờ học Địa lí chưa thực sự thu hút các emGiáo viên cũng chưa thực sự chọn được những phương pháp gây hứng thú mới mẻ trong cách dạy để thu hút các em. Với suy nghĩ làm sao để lựa chọn được những phương pháp nào hay, đặc trưng để dạy Địa lí ở Tiểu học và dạy như thế nào cho có hiệu quả? Đó không chỉ là vấn đề tôi quan tâm và hầu hết các giáo viên Tiểu học đều quan tâm . Bên cạnh đó, bản thân tôi thấy: Đa số học sinh dành nhiều thời gian học cho các môn Toán, Tiếng Việt, còn môn học Địa lí thì được xem nhẹ, chỉ cần học bài là được. Vì thế, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm để dạy tốt môn Địa lí lớp 4” để giúp học sinh yêu thích, hứng thú học Địa lí và nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. C¬ së lÝ luËn: Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa lí. Giáo viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp Học sinh khám phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất, môi trường sống của con người, về những hoạt động của loài người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Địa lí là một trong những bộ môn quan trọng đòi hỏi mỗi người phải am hiểu về kiến thức bộ môn. Tinh thần đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục hiện nay là: Giáo viên luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách nhiệm. Giáo viên đảm nhận vai trò là người mở đường, cố vấn và đánh giá. Vì vậy hoạt động của giáo viên tập trung vào những hoạt động sau: đề xuất ý tưởng, tổ chức học sinh làm việc theo các hình thức khác nhau (cá nhân, cặp, nhóm,..), giám sát và hỗ trợ học sinh trong quá trình các em thực hiện nhiệm vụ, đánh giá kết quả học tập. Hoạt động của học sinh rất phong phú: trải nghiệm và chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân, quan sát đối tượng học tập, đọc tài liệu, suy nghĩ và phán đoán, phát biểu ý kiến trong nhóm và trước lớp tích cực tự giác thể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Quán triệt tinh thần chỉ đạo nói trên, kết quả là học sinh lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới, bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê và yêu mến môn học hơn rất nhiểu những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên. Khi tôi đến lớp giảng dạy bất cứ môn gì thì cũng cần phải có sự hỗ trợ của thiết bị dạy học. Đối với môn Địa lí cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lý Dạy học Địa lí đòi hỏi kết hợp các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh nắm vững những tri thức khoa học và kỹ năng vận dụng các tri thức đó vào cuộc sống, giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính tích cực độc lập cho học sinh. Đặc điểm môn Địa lí lớp 4 là giúp các em biết được các sự vật hiện tượng về lĩnh vực Địa lí và mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng đó. Sách "Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4" được biên soạn phù hợp với tâm lý nhận thức của học sinh Tiểu học và không quá tải về kiến thức, tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và giúp HS tự rèn tại lớp, nhằm giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học sinh tính tự giác học tập. Học sinh đến với môn Địa lí là hình thành cho học sinh những biểu tượng, khái niệm đơn giản và bước đầu giúp học sinh nhận thấy mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố tự nhiên cũng như giữa tự nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở các vùng niềm khác nhau của đất nước. Từ đây học sinh thu nhập tìm kiếm tư liệu địa lí từ bài học hàng ngày trên lớp và trong đời sống thực tế Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên khai thác tối đa vốn sống của học sinh, tranh ảnh, bản đồ và hỗ trợ kịp thời để các em có được các biểu tượng, khái niệm Địa lí một cách đầy đủ và chính xác. Bên cạnh đó, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra mối quan hệ địa lí đơn giản để các em hiểu sâu và chắc các kiến thức địa lí đã học đồng thời phát triển tư duy học sinh. Để từ những giờ học trên lớp, các em biết đem về vận dụng vào cuộc sống phong phú. Từ đó các em hình thành thái độ ham học hỏi, tìm hiểu để biết về quê hương đất nước, con người và môi trường xung quanh, giúp học sinh có tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước, khát khao được học để trở thành con người năng động sáng tạo, có ích cho gia đình, xã hội, đem hết sức mình để góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam văn minh giàu mạnh. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 1. Thuận lợi Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh về cơ sở vật chất và các điều kiện nhà trường hiện có. Hệ thống các loại bản đồ, lược đồ rất phong phú, màu sắc rõ ràng, hấp dẫn, kích thích được sự hứng thú học tập của các em. Các tranh ảnh để cung cấp cho việc dạy Địa lí cũng tương đối đầy đủ. Đồ dùng dạy học cũng được trang bị, tuy không đủ. Một số đồ dùng tự làm đạt hiệu quả cao. Học sinh được tự học, học phù hợp với năng lực của mình, có nhiều cơ hội phát triển tư duy sáng tạo. Học sinh được hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, từ đó các em biết thừa nhận người khác, học hỏi người khác để điều chỉnh bản thân mình. 2. Khó khăn Lớp có nhiều em gia đình nhà nông sống trong bản là chủ yếu và còn khó khăn, gia đình chưa có sự quan tâm đúng đắn về việc học của học sinh. Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, chưa có phòng chức năng. Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú. Thư viện chưa có nhiều sách báo để tham khảo làm tốt đề tài nghiên cứu. Thời gian chưa nhiều để nghiên cứu kỹ và tốt hơn. Bên cạnh đó trong lớp học có nhiều học sinh có trình độ phát triển khác nhau có nhiều học sinh dân tộc, việc đọc, viết Tiếng Việt chưa tốt, các học sinh làm nhóm trưởng còn lúng túng dẫn đến tổ chức các hoạt động của học sinh chưa được tốt. Khi mới nhận lớp, qua trao đổi và thông qua một số tiết dạy Địa lí đầu năm tôi nhận thấy: Thực trạng học sinh lớp chỉ có khoảng rất ít em có kỹ năng sử dụng bản đồ, các em biết sử dụng bản đồ và phân tích một số liệu ở bảng thống kê ở mức biết nhưng chưa thành thạo, đặc biệt rất nhiều em học rất thụ động và lúng túng khi sử dụng bản đồ, đọc bảng số liệu thống kê. Đa số các em phân tích bản số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng. Việc quan sát sự vật, hiện tượng địa lí, tìm tòi tư liệu và trình bày lại kết quả bằng lời nói, bài viết còn sơ sài. Chất lượng học sinh không đồng bộ, một số em nhận thức chưa cao, nên việc tiếp thu bài còn chậm . III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 4. 1. Hệ thống nội dung, chương trình học môn Địa lí lớp 4. Để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Địa lí thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng loại bài, từng đối tượng học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tự khám phá ra kiến thức. Dạy môn Địa lí cần sử dụng phương pháp đặc trưng của bộ môn trên cơ sở tích hợp những phương pháp dạy học của những bộ môn khác có liên quan. Đề cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích cực và sáng tạo của hoạt động học tập. Ở bậc Tiểu học do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi học sinh nên yêu cầu về mặt tri thức của dạy học Địa lí chủ yếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng địa lí. Bước đầu hình thành một số khái niệm, xây dựng một số mối quan hệ địa lí đơn giản. Chương trình môn học Địa lí lớp 4 được phân phối như sau: * Học kỳ I ( 15 tiết) Bài 1: Dãy núi Hoàng Liên Sơn ( 3 tiết) Bài 2: Trung du Bắc Bộ ( 2 tiết) Bài 3: Tây Nguyên ( 3 tiết) Bài 4: Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên ( 2 tiết) Bài 5: Đồng bằng Bắc Bộ ( 2 tiết) Bài 6: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ ( 2 tiết) Phiếu kiểm tra 1 ( 1 tiết) * Học kỳ II ( 17 tiết) Bài 7: Thủ đô Hà Nội ( 2 tiết) Bài 8: Đồng bằng Nam Bộ ( 2 tiết) Bài 9: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ (2 tiết) Bài 10: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ ( 2 tiết) Bài 11: Dải đồng bằng duyên hải Miền Trung ( 3 tiết) Bài 12: Thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng ( 2 tiết) Phiếu kiểm tra 2 ( 1 tiết) Bài 13: Biển, đảo và quần đảo (2 tiết) Phiếu kiểm tra 3 ( 1 tiết) * Cấu trúc nội dung Hệ thống các phần trong chương trình tương đối hợp lý. Những khái niệm, biểu tượng mà học sinh tiếp xúc là từ dễ đến khó; khối lượng kiến thức vừa phải, dễ tiếp thu, dễ nắm vững các kiến thức cơ bản của bài. * Nội dung kênh hình, kênh chữ Mỗi bài học đều được trình bày bằng cả kênh chữ và kênh hình và bao gồm một hệ thống các hoạt động (có cả ba dạng hoạt động: hoạt động cơ bản, thực hành và ứng dụng) hướng tới đạt mục tiêu của bài. Biết rằng kênh chữ đóng vài trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn đóng vai trò quan trọng. Nó không chỉ là sự minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng tìm thông tin cho học sinh. * Ba yêu cầu hoạt động chung. - Các hoạt động cơ bản của một bài học thường bao gồm: + Hoạt động trải nghiệm hoặc liên hệ với những kiến thức học sinh đã biết liên quan đến kiến thức mới;... + Hoạt động tự xây dựng kiến thức, kĩ năng cho học sinh là hoạt động trọng tâm, bao gồm một số dạng hoạt động nhơ: quan sát đối tượng học tập (tranh ảnh, hình vẽ, lược đồ, bản đồ,..); khai thác thông tin từ kênh hình hoặc kênh chữ (đoạn hội thoại, đoạn văn, bảng thông tin, sơ đồ thông tin,...) của Tài liệu; giải quyết các tình huống có vấn đề;.. + Hoạt động củng cố kiến thức, Hoạt động này thường tiến hành thông qua bài đọc để củng cố những kiến thức học sinh đã tự xây dựng và trau dồi thái độ và giá trị liên quan đến nội dung học tập; - Hoạt động thực hành thường có các hoạt động như: Làm bài tập, liên hệ thực tế địa phương, tham gia chơi trò chơi hoặc làm hướng dẫn viên du lịch,... - Hoạt động ứng dụng: Vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để timg hiểu một chủ đề cụ thể có liên quan đến bài học và tạo ra một sản phẩm; thực hiện các hoạt động học tập ứng dụng trong môi trường địa phương. 2. Nghiên cứu, nắm vững mục tiêu môn Địa lí Một trong những yếu tố để giúp cho tiết dạy Địa lí thành công, đạt chất lượng cao thì trước tiên giáo viên phải nghiên cứu nắm vững mục tiêu chương trình Địa lí lớp 4. Đây là việc làm hết sức quan trọng. Vì thế khi nghiên cứu bài giảng, giáo viên cần phải nắm chắc những nội dung cơ bản của bài và những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt để việc thiết kế bài dạy sao cho thật sáng tạo, chất lượng, phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh. Nếu làm được như vậy sẽ gây hứng thú cho học sinh học Địa lí 3. Một số biện pháp đã thực hiện giúp học sinh học tốt môn Địa lí Những kiến thức về môn Địa lí Việt Nam bao gồm phần Tự nhiên và phần Kinh tế - Xã hội. Hai phần kiến thức này rất quan trọng và hết sức cần thiết đối với các em. Phần Địa lí Tự nhiên và phần Địa lí Kinh tế - Xã hội sẽ cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản về điều kiện tự nhiên, về sự khai thác thiên nhiên và các hoạt động kinh tế, nếp sống, sinh hoạt của con người ở các vùng chính trên đất nước Việt Nam. Đây cũng là tiêu đề cho việc học Địa lí ở các lớp sau. Vậy muốn dạy cho học sinh một tiết Địa lí hấp dẫn, sinh động, đạt hiệu quả cao để các em có hứng thú ham học mỗi giờ Địa lí. Trước tiên, tôi phải tìm hiểu những kiến thức, những thông tin về lĩnh vực Địa lí của từng miền, từng vùng trên đài truyền hình, sách, báo, nhằm cung cấp thêm những kiến thức cho các em để giáo dục các em biết yêu thiên nhiên và văn hoá gần gũi với các em. Mà để đạt được điều này tôi hướng dẫn học sinh thực hiện bằng các bước cụ thể sau: Biện pháp 3.1. Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu Trong mỗi tiết học của môn Địa lí các em đều phải sử dụng bản đồ, lược đồ. Vì bản đồ, lược đồ là nguồn cung cấp kiến thức, là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức địa lí, học sinh phải biết đọc các ký hiệu trên bản đồ, lược đồ, hiểu được ý nghĩa màu sắc được biểu thị trên bản đồ, lược đồ, xác định được các yếu tố địa lí trên bản đồ. Ví dụ: Khi dạy bài: Môn Lịch sử và Địa lí Tôi yêu cầu học sinh phải nêu được ba bước sử dụng bản đồ. Hướng dẫn học sinh tỉ mỉ cách sử dụng bản đồ, một số đối tượng lịch sử và địa lí trên bản đồ Địa lí tự nhiên Việt Nam (các hướng, đường biên giới quốc gia, sông, thành phố...) Khi dạy bài: Tây Nguyên Khi hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động 3 (phần hoạt động cơ bản - SHDH tập 1) cách chỉ vị trí, giới hạn và mô tả về Tây Nguyên trên bản đồ thì phải khoanh kín theo ranh giới của khu vực. Kế đến, tôi cho các nhóm thảo luận HĐ4 bằng phiếu bài tập sau để các nhóm trao đổi, thảo luận và làm việc với bản đồ: 1. Quan sát “Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên”. Đánh dấu X vào ô ý đúng. Tây Nguyên nằm ở phía nào của dãy núi Trường Sơn Nam? * Phía Bắc * Phía Đông * Phía Nam * Phía Tây 2. Điền tên các cao nguyên vào bảng theo thứ tự từ thấp đến cao Thứ tự Tên các cao nguyên Độ cao trung bình Số thứ tự 1. Kon Tum 500m 2. Plây Ku 800m 3. Đắk Lắk 400m 4. Lâm Viên 1500m 5. Di Linh 1000m Khi dạy bài: Đồng bằng Bắc Bộ Muốn cho học sinh chỉ được đồng bằng Bắc Bộ trên bản đồ Địa lí Việt Nam và mô tả Đồng bằng Bắc Bộ (HĐ2- HĐ thực hành, SHDH tập 1), tôi yêu cầu học sinh phải dựa vào màu sắc biểu thị trên bản đồ. Ví dụ như: Đồng bằng được biểu thị bằng màu xanh lá cây. Đồi núi được biểu thị bằng màu vàng. Màu vàng càng đậm thì độ cao của địa hình nơi đó càng cao. Muốn hướng dẫn học sinh xác định vị trí của con sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình trên “Lược đồ đồng bằng Bắc Bộ” ta phải xác định từ đầu nguồn xuống cuối nguồn của một dòng sông. Muốn xác định được địa điểm của thủ đô Hà Nội, tôi yêu cầu học sinh chỉ vào kí hiệu chứ không chỉ vào chữ ghi bên cạnh. Muốn học sinh thấy được sự khác biệt giữ đường biên giới đất liền được biểu hiện bằng những nét đứt. Muốn hướng dẫn xác định hướng gió, hướng núi chính trên bản đồ. Đầu tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được phương hướng của bản đồ là: Đầu phía trên bản đồ là hướng Bắc Đầu phía dưới bản đồ là phía Nam. Bên phải bản đồ là hướng Đông. Bên trái bản đồ là hướng Tây. Khi dạy bài: Đồng bằng Nam Bộ Để xác định được vị trí, giới hạn của đồng bằng Nam Bộ (HĐ1 của phần HĐ cơ bản, SHDH tập 2). Tôi hướng các em dựa vào phương hướng của bản đồ để chỉ khu vực Đồng baèng Nam Bộ (Nằm ở hướng Nam của bản đồ). Ngoài ra, đối với bài này học sinh còn phải dựa vào màu sắc của “Lược đồ tự nhiên Đồng bằng Nam Bộ” để so sánh diện tích đất, hệ thống sông ngòi, kênh rạch. với đồng bằng Bắc Bộ để rút ra kết luận: Đồng bằng Nam Bộ có diện tích lớn gấp hơn ba lần Đồng bằng Bắc Bộ, hệ thống sông ngòi, kêng rạch chằng chịt, có nhiều đất phèn, đất bị ngập mặn. Ngoài bản đồ, lược đồ ra, khi học Địa lí các em còn phải chú ý đến các bảng số liệu. Đối với các bảng số liệu, học sinh không phải học thuộc mà quan trọng nhất ở đây là các em biết và hiểu được ý nghĩa của chúng để có thể tự luận, so sánh, đối chiếu, phân tích các số liệu. Ví dụ: Khi dạy bài: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ Tôi cho học sinh quan sát: “Bảng số liệu về diện tích và dân số của một thành phố lớn.” (HĐ1- phần HĐ thực hành, SHDH tập 2). Qua bảng số liệu này, tôi yêu cầu học sinh nắm diện tích và dân số của Thành phố Hồ Chí Minh với các thành phố khác như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Để học sinh nắm được các yêu cầu trên tôi đề ra một số gợi ý cho các nhóm thảo luận như sau: + Đọc tên các cột, hàng trên bảng số liệu. + Các số liệu trong bảng được ghi vào thời gian nào? Được biểu thị theo đơn vị nào? + Năm 2011 Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ có diện tích và dân số là bao nhiêu? + Diên tích và dân số Thành phố Hồ Chí minh đứng thứ mấy trong các thành phố có trong bảng ? + Diện tích và dân số Thành phố Cần Thơ đứng thứ mấy trong các thành phố có trong bảng ? + Nêu nhận xét về dân số, diện tích đất ở Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Qua bảng số liệu về diện tích và dân số ở Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ, học sinh sẽ tự rút ra nhận xét: Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích lớn thứ hai trong các thành phố trong bảng và số dân lớn nhất trong các thành phố có trong bảng. Còn thành phố Cần Thơ có diện tích và số dân đứng thứ tư trong các thành phố có trong bảng. Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên Qua bảng số liệu về diện tích trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên (HĐ2a- HĐ thực hành, SHDH tập 1). Học sinh sẽ biết so sánh và rút ra nhận xét: Tây Nguyên là nơi trồng cà phê nhiều nhất ở nước ta. Đây còn là vùng chuyên trồng những loại cây công nghiệp lâu năm như cao su, điềucó giá trị xuất khẩu cao, tương tự để học sinh so sánh, nhận xét phần gia súc ở Tây Nguyên. Qua bảng số liệu về nhiệt độ trung bình tháng ở Hà Nội (Bài: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ - HĐ2C phần HĐ cơ bản, SHDH tập 1) Học sinh sẽ nắm được nhiệt độ của từng tháng trong măm ở Hà Nội. Bên cạnh đó các em còn biết: Vào các tháng mùa đông, nhiệt độ hạ thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các cây rau xứ lạnh như: bắp cải, hoa lơ, xà lách. Mang lại giá trị cao cho người dân ở đây. Biện pháp 3.2: Hình thành biểu tượng Địa lí Đây là bước rất quan trọng. Vì vậy phương pháp hình thành biểu tượng Địa lí tốt nhất là giáo viên phải biết lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện của lớp, của địa phương để cho các em quan sát trực tiếp các đối tượng tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình Ví dụ : Khi dạy bài: Hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên Phần HĐ5- HĐ cơ bản, SHDH tập 1: Tìm hiểu về rừng, hình thành biểu tượng rừng rụng là trong mùa khô (rừng khộp). Tôi cho học sinh quan sát tranh và thảo luận cặp đôi các tranh sách HDH và tranh mà tôi sưu tầm được. Sau đó tôi hướng dẫn các em xác định mục đích quan sát về đặc điểm của rừng rụng lá mùa khô mà các em quan sát từ tranh ảnh là: + Rừng thưa + Chỉ có một vài cây + Lá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_de_day_tot_mon_dia_ly_lop_4.doc