SKKN Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non

SKKN Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non

 Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đối với trẻ Mầm non, hiểu đơn giản kỹ năng sống chính là những thao tác hành động, nhận thức – tình cảm các con sử dụng hàng ngày để đáp ứng nhu cầu bản thân và xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống. Việc Dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ nâng cao năng lực tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau trong những tình huống cụ thể và vừa sức. Nội dung giáo dục, phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Cần tạo ra cơ hội để trẻ được trải nghiệm từ thực tế và rút ra kinh nghiệm cho bản thân từ những thực tế đó. Nếu không có kiến thức và kỹ năng sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi gặp tình huống bất ngờ. Chính vì vậy đồng hành với việc dạy kiến thức cần phải dạy các kỹ năng sống cơ bản cho trẻ như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân.

 Là Tổ trưởng tổ chuyên môn mẫu giáo và là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi việc giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau mà quyết định phải xuất phát từ trẻ, vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ, trẻ cần có điều kiện để trải nghiệm nêu lên các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp, phải được tư duy, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biết thích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế tại trường tôi thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế chưa được chú trọng nên trẻ lớp tôi chưa có những kỹ năng cơ bản ấy. Là một tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ năng sống tốt nhất và dạy dưới hình thức nào?

 Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Với trái tim người mẹ thứ hai của trẻ trong năm học 2018 - 2019 tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi "

 

doc 21 trang thuychi01 10851
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môc lôc
 STT
NỘI DUNG
Trang
 1 
MỞ ĐẦU
1.1
Lý do chọn đề tài
01
1.2
Mục đích nghiên cứu
01
1.3
Đối tượng nghiên cứu
01
1.4
Phương pháp nghiên cứu
01- 02
2
NỘI DUNG
2.1
Cơ sở lý luận 
02
2.2
Thực trạng 
02 - 03 
2.3
Các biện pháp
2.3.1
Biện pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn và tiếp thu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
03- 04
2.3.2
Biện pháp 2: Tạo môi trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 
04 - 05
2.3.3
Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học
05 - 07
2.3.4
Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có tính giáo dục và tính tương tác cao.	
07 - 10
2.3.5
Biện pháp 5: Sử dụng các tình huống cho trẻ giải quyết
10 - 11
2.3.6
Biện pháp 6 : Giáo dục kỹ năng sống thông qua các trò chơi vận động.
11 - 13
2.3.7
Biện pháp 7: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh 
13 - 14
2.4
Hiệu quả của sáng kiến 
14 - 15
3
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
15 - 17
1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài:
 Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đối với trẻ Mầm non, hiểu đơn giản kỹ năng sống chính là những thao tác hành động, nhận thức – tình cảm các con sử dụng hàng ngày để đáp ứng nhu cầu bản thân và xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống. Việc Dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ nâng cao năng lực tự  lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau trong những tình huống cụ thể và vừa sức. Nội dung giáo dục, phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Cần tạo ra cơ hội để trẻ được trải nghiệm từ thực tế và rút ra kinh nghiệm cho bản thân từ những thực tế đó. Nếu không có kiến thức và kỹ năng sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi gặp tình huống bất ngờ. Chính vì vậy đồng hành với việc dạy kiến thức cần phải dạy các kỹ năng sống cơ bản cho trẻ như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân...
 Là Tổ trưởng tổ chuyên môn mẫu giáo và là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi việc giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác nhau mà quyết định phải xuất phát từ trẻ, vì thế học phải hết sức gần gũi với cuộc sống, nội dung phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ, trẻ cần có điều kiện để trải nghiệm nêu lên các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp, phải được tư duy, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biết thích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Song tôi thấy thực tế tại trường tôi thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế chưa được chú trọng nên trẻ lớp tôi chưa có những kỹ năng cơ bản ấy. Là một tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ năng sống tốt nhất và dạy dưới hình thức nào?
 Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Với trái tim người mẹ thứ hai của trẻ trong năm học 2018 - 2019 tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi "
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Mục đích tôi nghiên cứu “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động , sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ nhằm phát triển toàn diện về mọi mặt, hình thành cho trẻ những phẩm chất cơ bản, bước đầu đặt nền móng cho sự phát triển giúp trẻ tự tin khi bước chân vào trường Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi "
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực hành và trải nghiệm
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp giao tiếp
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2.1. Cơ sở lý luận.
 Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non có một vai trò rất quan trọng vì, lứa tuổi mầm non là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân cách. kỹ năng sống là kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách cho trẻ
 Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách. Kỹ năng sống chính là chiếc chìa khóa vàng cho sự phát triển và sự thành công của mỗi con người.
 Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học 
tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này. Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng, từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng cao. Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau trong lớp như: Thảo luận, trao đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh nghiệm, trải nghiệm những vai trò khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được tham gia và cảm thấy mình là một thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội để phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ.
2. 2. Thực trạng của vấn đề
 Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi với tổng số cháu là 38 cháu. Qua tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, từ đó tôi chọn lọc biện pháp giáo dục cho phù hợp. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 
2.2.1. Thuận lợi :
 - Trường đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1, cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ
- Ban giám hiệu luôn quan tâm tới chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non theo quy định
- Giáo viên trong tổ chuyên môn đoàn kết cùng đưa ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống sao cho phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
- Giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ chuẩn, có sự nhiệt tình chia sẻ, phối hợp với nhau và luôn quan tâm tới trẻ, thường xuyên dành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng chăm sóc giáo dục trẻ.
- Là một giáo viên yêu nghề, mến trẻ, tận tình với công việc. Tôi thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2.2.2. Khó khăn:
- Chưa có nhiều tài liệu sách báo về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để giáo viên nghiên cứu, tham khảo.
- Giáo viên có nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Đồ dùng đồ chơi chưa phong phú nên còn khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM:
 Trước khi khảo sát đề tài tôi tiến hành khảo sát các kỹ năng sống trên trẻ, với số lượng là 38 trẻ:
Stt
Kỹ năng sống
Đạt
Chưa đạt
Số trẻ
Tỉ lệ %
Số trẻ
Tỉ lệ %
1
Tính tự tin
19
50%
19
50%
2
Kỹ năng hợp tác
20
53%
18
47%
3
Kỹ năng giao tiếp
22
58%
18
42%
4
Kỹ năng xử lí tình huống
17
45%
21
55%
5
Sự tò mò và khả năng sáng tạo.
20
53%
18
47%
6
Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.
19
50%
19
50%
Xuất phát từ đặc điểm chung của trường, của lớp và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống như sau:
2.3. Các biện pháp giải quyết:
2.3.1. Biện pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn và tiếp thu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non đang còn là mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ.
Ngoài học tập chuyên đề ra tôi còn tham khảo thêm trong sách báo như báo “giáo dục mầm non” do nhà trường phát, phương tiện thông tin đại chúng thông qua các chương trình truyền hình trên các kênh “Kid TV; Giáo dục trẻ em ECE; kênh cartoon,”, tham khảo qua bạn bè để nâng cao trình độ chuyên 
môn.
Sau khi tìm hiểu về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non của giáo viên mầm non, có thể nói rằng kỹ năng sống là rất quan trọng đối với mỗi người chúng ta, vì vậy phải luôn luôn học kỹ năng sống trong suốt cả cuộc đời. Vậy đối với trẻ mầm non thì tâm sinh lý còn non nớt, nên người lớn đặc biệt là giáo viên mầm non cần chú trọng đến việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Vậy dạy trẻ như thế nào và dạy như thế nào cho phù hợp tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và sắp xếp các nội dung khảo sát kỹ năng sống theo trình tự của kế hoạch cụ thể:
* Kế hoạch cả năm:
Giai đoạn
Chủ đề
Kỹ năng giáo dục
Giai đoạn 1: 
 (Tháng 9, 10, 11)
- Chủ đề trường mầm non
- Chủ đề: “Bản thân"
- Chủ đề “Gia đình”
- Kỹ năng hợp tác
- Kỹ năng tự tin
- Kỹ năng giữ an toàn cá nhân
Giai đoạn 2:
(Tháng 12, 1, 2)
- Chủ đề “Nghề nghiệp”
- Chủ đề “động vật”
- Chủ đề “thực vật”
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng tò mò, sáng tạo
- Kỹ năng xử lý tình huống
Giai đoạn 3
(Tháng 3, 4, 5)
- Chủ đề “Giao thông”
-Chủ đề “Hiện tượng tự nhiên”
- Chủ đề “Quê hương đất nước Bác Hồ”
- Chủ đề “Trường tiểu học”
- Kỹ năng giữ an toàn cá nhân
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng tò mò, sáng tạo
 - Kỹ năng tự tin
 Tôi đã xây dựng kế hoạch và chia thành 3 giai đoạn tại vì:
 - Ở giai đoạn 1: Vì trẻ mới tập trung đến lớp sau những ngày nghỉ hè và phù 
hợp với chủ đề dễ lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các nội dung giáo dục khác như chủ đề “trường mầm non” trẻ cần có kỹ năng hợp tác với bạn bè, cô giáo để thực hiện tốt các hoạt động trong lớp.
 Chủ đề “Bản thân” Giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn trước đám đông hay tự tin về khả năng của mình
 Chủ đề “gia đình”cần giúp trẻ biết sử dụng đồ dùng an toàn như: Biết sử dụng đồ dùng, thiết bị điện, biết sử dụng đồ dùng sắc nhọn...
- Ở giai đoạn 2: Trẻ đã tự tin mạnh dạn tôi sẽ rèn kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống lồng ghép với chủ đề “Nghề nghiệp, động vật, thực vật”
- Ở giai đoạn 3: Khi trẻ đã mạnh dạn tự tin tôi sẽ tiếp tục rèn kỹ năng, kỹ sảo lồng ghép vào chủ đề “Hiện tượng tự nhiên, Quê hương đất nước bác Hồ, Trường tiểu học”
 Ta có thể khẳng định rằng để trẻ có kỹ năng sống tốt thì ta phải luôn luôn giáo dục trẻ trong suốt quá trình dạy trẻ. Vậy khi xây dựng kế hoạch là ta cần tập trung những chủ đề đã lựa chọn để hình thành thói quen (Kỹ năng) còn những chủ đề sau ta vẫn tiếp tục dạy để hình thành kỹ sảo. 
 Thông qua biện pháp này tôi thấy bản thân hiểu hơn và nắm vững hơn phương pháp cũng như cách truyền đạt kỹ năng sống tới trẻ.
2.3.2: Biện pháp 2: Tạo môi trường thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ, vì thế cần phải có môi trường giáo dục trong lớp và ngoài lớp học. Môi trường trong lớp như: Các góc chơi, đồ dùng đồ chơi, trang trí phòng nhóm lớp...có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng sống.
Ví dụ:
 Cô dán những ký hiệu không nên (x) bằng màu đỏ đối với những vận dụng có thể gây nguy hiểm để trẻ đề phòng nguy hiểm như: Ổ điện, dây máy tính,
Trong lớp học tôi đã trang trí góc thư viện và văn học để nơi dễ hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề như "Thư viện trường mầm non"; "Tủ sách gia đình"; "Những con vật đáng yêu"...Ngoài ra tôi còn tạo nhiều góc mở khác cho trẻ hoạt động như: "Góc kỹ năng của bé" ở góc này trẻ được thực hành trải nghiệm một số kỹ năng như: Cài khuy, tết tóc, chải đầu...và ở mỗi chủ điểm tôi đều cho trẻ thực hành các kỹ năng khác nhau theo chủ đề. 
Đối với môi trường ngoài lớp học: Tôi đã mạnh dạn tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu như: "Đội mũ bảo hiểm khi ngồi mô tô, xe máy"; "Bỏ rác vào thùng đúng nơi quy định"...
Sau khi tạo được môi trường giáo dục, tôi đã lên kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự biến tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày để làm căn cứ, thước đo để đánh giá trẻ.
2.3.3. Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học
Giáo dục kỹ năng sống là phải giáo dục trẻ mọi lúc, mọi nơi và cả trên tiết học.Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hoá là rất cần thiết. Trên tiết học trẻ vừa được cung cấp kiến thức vừa được giáo dục kỹ năng cần thiết.
Ví dụ:
* Trong hoạt động phát triển thể chất:
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khoẻ mạnh, trẻ biết trong khi tập phải xếp hàng theo thứ tự không chen lấn xô đẩy nhau. Trẻ biết tự lấy đồ dùng, dụng cụ thể dục của mình. Biết hợp tác với bạn để chơi trò chơi.
 Hình ảnh trẻ thực hiện bài tập "Đi trên ghế thể dục"
* Hoạt động khám phá xã hội:
Trẻ được lĩnh hội những kiến thức về thế giới xung quanh, từ đó hình thành cho trẻ những kỹ năng như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bảo vệ an toàn cho bản thân
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi.
Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt bạn nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
Với chủ đề “ Bản thân” tôi cho trẻ trải nghiệm với các giác quan của mình, những trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của trẻ.
* Hoạt động giáo dục âm nhạc:
Thông qua bài hát : “ Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
Ngoài ra lớp tôi còn tổ chức giờ học biểu diễn văn nghệ tại lớp để giúp trẻ tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.
 Hình ảnh giờ hoạt động âm nhạc
* Hoạt động tạo hình:
Đề tài “ Vẽ ngôi nhà của bé”. Cô giáo dục trẻ biết yêu quý ngôi nhà của mình ở, biết quét dọn ngôi nhà của mình sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng.
* Hoạt động quen văn học: Qua câu chuyện: “ Người bạn tốt”
Cô đàm thoại cùng trẻ:
- Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?
- Khi Linh gặp nạn thì Trang sẽ làm gì?
- Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
* Hoạt động quen chữ cái: Tôi dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.
Ngoài ra tôi còn tổ chức các tiết thực hành mỗi tuần một hoạt động vào các buổi chiều
 Ví dụ:
 Thực hành: - Bé tự đánh răng
 - Bé sẽ làm gì khi bị lạc
 - Bé sẽ làm gì khi bị ốm, đau, chảy máu...
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm có tính giáo dục và tính tương tác cao.	
Phương pháp giáo dục trẻ mầm non phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu hứng thú của trẻ trong phương châm chơi mà học, học bằng chơi. Chú trọng đổi mới môi trường giáo dục nhằm kích thích tạo cơ hội cho trẻ khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ.
Ngoài ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa  hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
 Hình ảnh trẻ xếp hàng rửa tay và giờ ăn của trẻ
Trong năm học tôi đã tổ chức cho trẻ đi tham quan một số khu vực ở gần trường phù hợp với thời điểm và với chủ đề đang học.
Ví dụ:
Chủ đề “Nghề nghiệp” tôi cho trẻ đi tham quan quán cắt tóc, gội đầu, trang điểm của cửa hàng cô Trang Hoan. Trẻ vừa được quan sát trò chuyện, đàm thoại về công việc, về các đồ dùng dụng cụ của nghề làm đầu vừa được chia nhóm thực hành một số thao tác như chải tóc, trang điểm, gội đầu, cắt tóc, làm tóc xoăn và sấy tóc cho bạn.
Hình ảnh trẻ đang thực hành một số thao tác như chải tóc, trang điểm, gội đầu cho bạn và cho khách
 Qua buổi tham quan như vậy trẻ rất phấn khởi vì được giao lưu với bên ngoài phạm vi trường mầm non. Trên đường đi trẻ biết đi theo hàng lối và đi sát lề đường bên phải để bảo vệ an toàn cho bản thân, biết chào hỏi mọi người trẻ gặp. Được đi nhiều lần trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Trẻ được luyện kỹ năng giao tiếp xã hội, chào hỏi lễ phép, được rèn khả năng quan sát nhận biết các sự vật hiện tượng ở trên đường đi và ở nơi mà trẻ đến tham quan. Qua đó kiến thức mà trẻ thu được về chủ đề sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn.
 Hình ảnh trẻ đi theo hàng và đi sát nề đường bên phải, trên đường gặp bác thợ sửa 
xe máy trẻ khoanh tay chào bác
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho trẻ giao lưu giữa các tổ trong nhóm hoặc giữa các lớp lớn trong khu 2 lần/tháng. Trong buổi giao lưu trẻ được làm quen với nhau, được thể hiện bản thân mình, được trò chuyện, cùng nhau tìm hiểu khám phá về một chủ đề đang học, giúp kiến thức của trẻ được mở rộng và củng cố thêm. Trẻ biết mở rộng mối quan hệ ra ngoài lớp học từ đó trẻ mạnh dạn, tự tin hơn 
2.3.5. Biện pháp 5: Sử dụng các tình huống cho trẻ giải quyết
Trong cuộc sống có vô vàn tình huống cho trẻ giải quyết, ứng phó. Khả năng vận dụng các kỹ năng sống một cách linh hoạt sẽ cho phép trẻ xử lý tốt các tình huống xảy ra vớ trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những kỹ năng cần hình thành cho trẻ đó là giúp trẻ có khả năng xử lý tình huống có vấn đề. Khi trẻ được đi tham quan thực tế trẻ được cọ sát rất nhiều tình huống thực tế, giúp trẻ bòi dưỡng kỹ năng xử lý tình huống hiệu quả 
Ví dụ: Trên đường đi trẻ gặp một người lớn vứt rác ra đường, trẻ nhắc người đó nhặt rác khiến người đó cảm tháy ngượng và xấu hổ về hành vi không đẹp của mình
 Ngoài ra, tôi còn thiết kế một số tình huống để tập cho trẻ tự giải quyết vấn đề. Những tình huống này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. 
Ví dụ1: - Trong giờ hoạt động góc, trẻ rất ồn cô tạo tình huống bị đau đầu và ngất xỉu ra lớp, tôi thấy trẻ cuống quýt hỏi nhau cần xử lý tình huống này như thế nào? Cuối cùng trẻ cũng đi đến một quyết định đó là gọi cô giáo lớp khác đến để giúp. Điều đó chứng tỏ trẻ đã biết cách mạnh dạn đưa ra ý kiến, cùng hợp tác với nhau để lựa chọn ra hướng giải quyết tốt nhất, biết gọi người lớn khi cần giúp đỡ.
Ví dụ 2: Trong một giờ hoạt động của lớp tôi có 38 trẻ. Với buổi hoạt động lao động gồm các nội dung lau lá cây, tưới cây, nhặt lá rụng tôi dự kiến mỗi nội dung hoạt động có 12 - 13 trẻ một nhóm. Tôi chuẩn bị cho trẻ 10 khăn lau, 10 bình tưới, 10 giỏ. T

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_day_ky_nang_song_cho_tre_mau_giao_5_6.doc