SKKN Một số biện pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng phân môn Lịch sử lớp 4
Giáo dục Tiểu học hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu đúng đắn cho sự phát triển lâu dài về trí tuệ, tình cảm, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để các em học tiếp ở Trung học cơ sở và các bậc học cao hơn.
Lịch sử là một trong những kiến thức quan trọng cần trang bị cho học sinh Tiểu học. Việc học tập lịch sử giúp hình thành niềm tin đạo đức, chuẩn mực về thái độ và hành vi đúng đắn, xác định nhiệm vụ bản thân đối với quê hương, đất nước.
Phân môn Lịch sử ở lớp 4 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Dạy môn lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích văn hóa.Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế trong quá trình dạy học và để giúp học sinh theo dõi tiến trình lịch sử một cách hệ thống và ghi nhớ một số sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chặt chẽ, tôi nhận thấy cần phải có những biện pháp cụ thể để tăng cường tính tích cực hóa học tập của học sinh, giúp các em nắm vững kiến thức môn này. Học Lịch sử tốt các em sẽ hiểu và yêu thương, kính trọng, tôn vinh các anh hùng dân tộc, yêu quý tôn trọng các chiến công hiển hách hào hùng của ông cha ta, các di tích lịch sử , từ đó tăng thêm lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần xây dựng và ý thức bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Những tri thức thu nhận được từ phân môn Lịch sử gắn chặt trong kí ức, tâm trí các em và một số kiến thức sẽ được hiện thực hóa trong cuộc sống thơ ngây và cả cuộc đời của học sinh.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Giáo dục Tiểu học hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu đúng đắn cho sự phát triển lâu dài về trí tuệ, tình cảm, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để các em học tiếp ở Trung học cơ sở và các bậc học cao hơn. Lịch sử là một trong những kiến thức quan trọng cần trang bị cho học sinh Tiểu học. Việc học tập lịch sử giúp hình thành niềm tin đạo đức, chuẩn mực về thái độ và hành vi đúng đắn, xác định nhiệm vụ bản thân đối với quê hương, đất nước. Phân môn Lịch sử ở lớp 4 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Dạy môn lịch sử là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồvận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích văn hóa...Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế trong quá trình dạy học và để giúp học sinh theo dõi tiến trình lịch sử một cách hệ thống và ghi nhớ một số sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chặt chẽ, tôi nhận thấy cần phải có những biện pháp cụ thể để tăng cường tính tích cực hóa học tập của học sinh, giúp các em nắm vững kiến thức môn này. Học Lịch sử tốt các em sẽ hiểu và yêu thương, kính trọng, tôn vinh các anh hùng dân tộc, yêu quý tôn trọng các chiến công hiển hách hào hùng của ông cha ta, các di tích lịch sử, từ đó tăng thêm lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần xây dựng và ý thức bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Những tri thức thu nhận được từ phân môn Lịch sử gắn chặt trong kí ức, tâm trí các em và một số kiến thức sẽ được hiện thực hóa trong cuộc sống thơ ngây và cả cuộc đời của học sinh. Từ trước đến nay việc dạy học Lịch sử ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng đã được giáo viên thực hiện nghiêm túc: dạy đúng, đủ theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Một số giáo viên có tâm huyết với nghề, có kiến thức lịch sử sâu rộng cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin tốt thì khi dạy các tiết Lịch sử thường sưu tầm thêm tranh ảnh phục vụ cho từng bài, từng hoạt động rồi trình chiếu powerpoint hay tổ chức các trò chơi... nên học sinh rất hứng thú học. Song số giáo viên này còn rất khiêm tốn. Nhiều giáo viên còn hiểu lơ mơ về kiến thức lịch sử, chưa nắm chắc nội dung và sử dụng đúng phương pháp dạy học tích cực theo đặc trưng của phân môn nên thường sử dụng phương pháp thuyết trình hay giảng giải. Vì thế, học sinh tiếp thu bài thụ động, ghi nhớ máy móc, học vẹt, học xong quên ngay. Chính vì lẽ đó mà học sinh càng lên lớp cao càng ngại học môn Lịch sử dẫn đến chất lượng môn Lịch sử ngày càng giảm sút, đến mức báo động. Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng phân môn Lịch sử lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở lí luận học, với mong muốn là tìm hiểu kĩ hơn nội dung chương trình phân môn Lịch sử lớp 4, khắc phục một số khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh trong dạy học phân môn Lịch sử ở Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng. Từ đó, tôi tìm ra biện pháp dạy học tích cực giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4. Đồng thời bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương đất nước, tinh thần xây dựng và ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Một số vấn đề về thực trạng dạy học phân môn Lịch sử Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng. - Nội dung chương trình phân môn Lịch sử lớp 4 (Theo tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4 – Mô hình VNEN). - Học sinh lớp 4A – Trường Tiểu học Hưng Lộc I – Hậu Lộc). 4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận. Chương trình Lịch sử lớp 4 đưa vào những sự kiện lịch sử từ buổi đầu dựng nước và giữ nước (khoảng 700 năm trước Công Nguyên), những chứng cứ lịch sử. Qua đó các em sẽ được học cách làm việc khai thác tư liệu lịch sử của các nhà sử học. Tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4 đã chú ý đến các kĩ năng của việc học tập lịch sử như: Kĩ năng quan sát và phân tích tranh ảnh lịch sử; Kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, sơ đồ, lược đồ, biểu đồ; Kĩ năng so sánh, trừu tượng hóa trên cơ sở sử liệu; Kĩ năng đánh giá, giải thích các tài liệu gốc; Kĩ năng sắp xếp hệ thống hóa các sự kiện hiện tượng lịch sử theo thời gian và không gianTừ đó các em mạnh dạn nêu thắc mắc, đặt câu hỏi và cùng tìm câu trả lời, trình bày kết quả học tập bằng cách diễn đạt của chính mình. Để thực hiện được mục tiêu môn học, hướng tới rèn các kĩ năng nêu trên, yêu cầu người thầy phải có hệ thống phương pháp dạy học phù hợp với môn học.Việc sử dụng chúng tùy vào mục đích và khả năng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể như: đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và không khí học tập. Trong thực tiễn không một giáo viên có kinh nghiệm nào lại sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy học của mình. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các phương pháp dạy học trong một bài dạy của một người giáo viên. Có thể minh họa việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở Tiểu học bằng sơ đồ: Thông tin tài liệu – Sự kiện cho học sinh qua các phương tiện và phương pháp phù hợp. Xác định các kiến thức cần giúp học sinh lĩnh hội. Xác định cụ thể chính xác mục tiêu của bài học. Các hoạt động và bài tập liên quan đến các thành tố của bài học. Các hoạt động tổng hợp và đánh giá. Các hoạt động tự học của học sinh. Kiểm tra và đánh giá. Trong dạy học Lịch sử ở Tiểu học, cần chú ý đến các mối quan hệ giữa thầy – trò, trò – trò đối với các thao tác sư phạm nói, nghe và học. Đối thoại là cách dạy học có hiệu quả phù hợp với học sinh Tiểu học để nắm vững (biết và hiểu) kiến thức lịch sử, làm cho học sinh luôn có nhu cầu và hứng thú nghe bạn nói, suy nghĩ và tham gia vào quá trình trao đổi để tiếp nhận kiến thức góp phần làm cho các bạn trong nhóm đều có thể tiếp thu kiến thức. Trao đổi là làm cho mọi học sinh tham gia vào quá trình học tập tích cực này chứ không thụ động ngồi nghe. Qua trao đổi, giáo viên sẽ hiểu rõ từng học sinh về cá tính, trình độ, năng khiếu, rèn luyện cho các em khả năng suy nghĩ, diễn đạt, mạnh dạn trình bày trước các bạn trong nhóm và trước lớp. Đóng vai là một biện pháp sư phạm quan trọng để học sinh được “sống” với quá khứ “nhập thân” vào lịch sử, sẽ rung cảm mạnh mẽ. Việc “đóng vai” trong giờ học chỉ giới hạn chủ yếu ở việc đọc diễn cảm, làm các động tác cần thiết, phù hợp với nội dung bài học. Việc “đóng vai” sẽ làm cho lớp học sinh động hơn. Học sinh tự trình bày những hiểu biết của mình về một sự kiện. Các em sẽ thảo luận theo nhóm một chủ đề hoặc các vấn đề, đề tài có liên quan đến bài học. Mỗi nhóm cử một đại diện để trình bày. Cuối buổi thảo luận, học sinh báo những điều nhóm mình tìm ra để giúp nhau học tập. Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử ở Tiểu học nói riêng, người giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học vào một tiết dạy. Không được xem nhẹ một phương pháp nào, mỗi phương pháp có những mặt mạnh và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một phương pháp nào. Để tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả giáo viên cần biết lựa chọn ưu thế của từng phương pháp phù hợp với mục tiêu, nội dung của từng loại bài học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 2. Thực trạng việc dạy - học Lịch sử ở trường Tiểu học Hưng Lộc I – Hậu Lộc. * Về phía giáo viên: Qua thực tế dạy học nhiều năm ở khối 4 – 5, tôi nhận thấy đa số giáo viên đã khẳng định đúng vai trò của phân môn lịch sử trong hệ thống các môn học ở Tiểu học. Giáo viên cho rằng phương pháp dạy học Lịch sử thật sự rất riêng biệt, cần phải có sự đầu tư chuyên sâu về cả kiến thức lẫn phương pháp dạy học. Tuy nhiên trong chương trình được quy định ở bậc Tiểu học, bắt đầu từ lớp 4 mới thực hiện dạy Lịch sử cho học sinh nên số giáo viên có phương pháp dạy Lịch sử tốt còn khiêm tốn. Ngoài ra, còn một số giáo viên quan niệm Lịch sử không phải là môn học chính mà chỉ chú trọng vào hai môn Toán và Tiếng Việt. Giáo viên chưa quan tâm đến việc hướng dẫn cho các em thực hành trên bản đồ, lược đồ và tranh ảnh, hình ảnh, hoặc chưa sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện dạy học. Việc sưu tầm tài liệu về những sự kiện, nhân vật lịch sử của địa phương có liên quan đến tiết dạy còn hạn chế. Khi khai thác nội dung kiến thức, giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc Việc quan sát biểu đồ, lược đồ cũng không kém phần quan trọng vì kênh hình gây cho học sinh nhiều hứng thú trong học tập, nhưng hiện nay trang thiết bị phục vụ cho môn Lịch sử đang thiếu trầm trọng, không có đủ lược đồ, bản đồ, chưa có các phương tiện dạy học như băng hình, sa bànGiáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh quan sát biểu đồ, lược đồ; lúng túng trong cách kể chuyện lịch sử hay tường thuật diễn biến một trận đánhvà ít dành thời gian nghiên cứu bài dạy, dẫn đến hiệu quả của việc giảng dạy chưa cao. * Về phía học sinh: Chương trình Tự nhiên và xã hội ở Tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I từ lớp 1 đến lớp 3 (có tên gọi là Tự nhiên và xã hôi), giai đoạn II từ lớp 4 đến lớp 5 (có sách giáo khoa phần Lịch sử và phần Địa lí riêng). Vì thế, với học sinh lớp 4, phân môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới mẻ đối với các em, chính vì vậy việc tiếp thu kiến thức về môn học này tương đối khó khăn, việc học của các em gặp nhiều trở ngại. Đặc biệt các em chưa nhận thức đúng vai trò của môn Lịch sử. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên. Việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn cho học sinh khiến các em chỉ học thuộc lòng đối phó, để trả bài, chứ đầu thì trống rỗng. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (dễ nhớ nhưng lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chậm, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin, học thụ động. Kết quả khảo sát sau 4 tuần đầu năm học 2015 – 2016 Tổng số học sinh Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL 28 18 60 10 40 Với kết quả như trên, ta thấy tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành còn cao, nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phân môn Lịch sử nói riêng và chất lượng môn Lịch sử và Địa lý nói chung. Sau khi tìm tòi nghiên cứu, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mong muốn khắc phục được tình trạng nêu trên. 3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện. Biện pháp 1: Người giáo viên phải không ngừng học tập bồi dưỡng kiến thức và phương pháp dạy học Lịch sử. Bác Hồ đã từng nói: ‘‘Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Học tập, bồi dưỡng kiến thức Lịch sử trước hết là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam. Với người giáo viên dạy học Lịch sử cho học sinh thì điều đó càng quan trọng. Chính kiến thức và phương pháp dạy của giáo viên sẽ dẫn dắt, khích lệ các em để ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường Tiểu học. Các em phải có ý thức ghi nhớ, tìm hiểu lịch sử dân tộc và tránh hiện tượng sau này học sinh ‘‘quay lưng với môn Lịch sử”. Để thực hiện tốt các bài dạy trên lớp, yêu cầu giáo viên phải có kiến thức cơ bản về nội dung chương trình giảng dạy và biết xâu chuỗi thành một hệ thống. Bởi trong quá trình lên lớp, giáo viên có thể nhận được những thắc mắc ‘‘vô cùng tận” của học trò và buộc phải ít nhiều giải đáp được cho các em lúc đó. Nội dung chương trình phân môn Lịch sử lớp 4 trong tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4 được chia theo các mốc thời gian như sau: a. Nội dung 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng năm 700 TCN đến năm 179 TCN): Sự ra đời của nền văn minh Văn Lang - Âu lạc và những thành tựu chính của văn minh Văn Lang - Âu Lạc. b. Nội dung 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938): Cuộc sống của nhân ta dưới ách đô hộ và chính sách đồng hóa dân tộc của các chiều đại phong kiến phương Bắc và phong trào đấu tranh của nhân dân ta để giành độc lập, tự chủ (Khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, chiến thắng Bạch Đằng 938). c. Nội dung 3: Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009): Tình hình đất nước sau khi Ngô Quyền mất; Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Lê Hoàn lên ngôi vua, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất (năm 981). d. Nội dung 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226): Sự ra đời của nhà Lý; vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, đổi lại tên nước; Sự phát triển của đạo phật; Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai. e. Nội dung 5: Nước Đại Việt thời Trần (Từ năm 1226 đến năm 1400): Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần; Ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên xâm lược; Công cuộc xây dựng đất nước ở thời Trần (Việc đắp đê). g. Nội dung 6: Nhà Hồ (Từ năm 1400 đến năm 1407): Hoàn cảnh ra đời của nhà Hồ năm 1400; Một số chính sách của nhà Hồ; nhà Hồ thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược năm 1047. h. Nội dung 7: Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỷ XV): Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế (năm 1428); Việc tổ chức quản lí đất nước. i. Nội dung 8: Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê: Sự phát triển văn hóa và khoa học dưới thời Hậu Lê. k. Nội dung 9: Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị (Thế kỷ XVI – XVIII): Nước ta bị chia cắt và hậu quả của sự chia cắt; Công lao của các chúa Nguyễn. l. Nội dung 10: Phong trào Tây Sơn và Vương triều Tây Sơn (1771 – 1802): Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long đại phá quân Thanh; Quang Trung với sự nghiệp xây dựng đất nước. m. Nội dung 11: Buổi đầu thời Nguyễn (Từ năm 1802 đến năm 1858): Nhà Nguyễn thành lập kinh thành Huế. Sau 2 đến 3 hoặc 6 nội dung lại có 1 Phiếu kiểm tra nhằm giúp học sinh ôn lại những sự kiện lịch sử tương ứng với mốc thời gian. Hoặc: Thời gian diễn ra, người đứng đầu, kết quả, ý nghĩa nổi bật của các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng. Hoặc: Các triều đại với các sự kiện tiêu biểu. Hoặc: Công lao to lớn của các nhân vật lịch sử... Với mục tiêu giúp học sinh có được hệ thống kiến thức trên, trong quá trình dạy học, giáo viên phải không ngừng tìm hiểu để bồi dưỡng kiến thức, ít nhất phải nắm rõ được những nét cơ bản, sự kiện lịch sử nổi bật, nhân vật lịch sử nổi bật, đóng góp nổi bật của từng triều đại đối với lịch sử nước nhà. Để làm được điều đó, giáo viên nên xây dựng quỹ thời gian để tìm hiểu. Theo tôi, trong thời kì xã hội phát triển công nghệ như hiện nay giáo viên có rất nhiều nguồn tư liệu như: sách báo, internet, các chương trình truyền hình lịch sử, các bộ phim lịch sử, các buổi nói chuyện của nhân chứng lịch sử, các nhà sử học, đi thực tê tại các di tích lịch sử còn được bảo tồn, lưu giữTuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu, kiến thức lịch sử, yêu cầu phải ở mức độ chính xác nên giáo viên cần phải có sự kiểm chứng nguồn thông tin một cách chính thống, đáng tin cậy. Song song với việc bồi dưỡng kiến thức, giáo viên cũng phải bồi dưỡng phương pháp dạy học, tích cực học tập từ tài liệu, đồng nghiệp để trở thành người dẫn dắt học sinh nắm bắt kiến thức kĩ năng một cách thân thiện, nhẹ nhàng, khơi gợi niềm say mê, hứng khởi, tránh nhồi nhét, không áp lực. Bài học Viết câu trả lời, điền câu, sắp xếp đúng các sự kiện, địa điểm, thời gian. Vẽ bản đồ, sơ đồ và các loại đồ dùng trực quan khác vừa sức học sinh. Gợi ý một số vấn đề để học sinh suy nghĩ trả lời, đặt câu hỏi, trao đổi trong nhóm, đóng vai các nhân vật lịch sử. Trong dạy học việc phát huy tính tích cực học sinh, cần chú ý đến các hoạt động và bài tập có liên quan đến bài học. Biện pháp 2: Phát huy tính tích cực của học sinh trong kĩ năng đọc và phân tích tư liệu: Muốn học sinh tiếp thu tri thức mới, giáo viên cần tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò. Hướng cho kiến thức lịch sử đến với các em bằng nhiều kênh thông tin khác nhau để học sinh am hiểu và nắm bắt kiến thức một cách vững chắc hơn chứ không phải là những bài giảng nhàm chán, thiếu hấp dẫn. Phương pháp dạy và học bây giờ là hạn chế tối đa việc học thuộc lòng. Để học sinh dễ hiểu, dễ nắm được những sự kiện, thời gian lịch sử, cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc và phân tích tư liệu. Phần kênh chữ trong bài, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm, phân tích, giúp các em hiểu những thông tin do kênh chữ cung cấp sau khi đi vào tìm hiểu những sự kiện trong bài. Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức giúp cho các em phát huy khả năng nói. Ví dụ: Ở sự kiện: “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyến lãnh đạo (năm 938)”: Các em muốn biết nguyên nhân nào có trận Bạch Đằng thì các em phải đọc thông tin trong tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4(Trang 31,32 – Tập 1). Hoặc sự kiện: “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân”: Để biết được tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, các em đọc tài liệu Hướng dẫn học (Trang 39 – Tập 1) để nắm chắc nội dung kênh chữ sau đó trả lời câu hỏi: Sau khi Ngô Quyền mất tình hình nước ta như thế nào ? (Sau khi Ngô Quyền mất triều đình lục đục, tranh nhau ngai vàng..). Hay sự kiện: “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)”: Giúp học sinh ghi nhớ nguyên nhân Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Giáo viên đọc cho học sinh nghe 1 số câu thơ: “Giận thay Tô Định bạo tàn/ Nay ta dấy nghĩa diệt loài sói lang. Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này”. Với sự kiện: “Thành thị ở thế kỉ XVI – XVII”: Để các em mô tả đúng ba thành thị lớn của nước ta thế kỉ XVI – XVII. Tôi đưa ra bài tập sau: Điền thông tin để hoàn thành phiếu học tập: Đặc điểm Thành thị Dân cư Quy mô thành thị Hoạt động buôn bán Thăng Long Phố Hiến Hội An Tôi tiến hành theo các bước sau: - Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc tài liệu Hướng dẫn học hoàn thành bảng thống kê sau: - Bước 2: Yêu cầu mỗi nhóm mô tả về một thành thị. - Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm mô tả đúng. Kết quả hoàn thành phiếu bài tập trên. Đặc điểm Thành thị Dân cư Quy mô thành thị Hoạt động buôn bán Thăng Long Đông dân hơn nhiều thành thị ở châu Á Lớn bằng thành thị ở một số nước châu Á Những ngày chợ phiên, dân các vùng lân cận gánh hàng hóa đến đông không thể tưởng tượng được. Buôn bán nhiều mặt hàng như áo, tơ lụa, Phố Hiến Có nhiều dân nước ngoài như Trung Quốc, Hà Lan, Anh, Pháp. Có hơn 2000 nóc nhà của người nước khác đến ở. Là nơi buôn bán tấp nập. Hội An Là dân địa phương và các nhà buôn Nhật Bản. Phố cảng đẹp và lớn nhất Đàng Trong Thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán. Cách học này giúp các em mô tả đúng về thành thị và ghi nhớ kiến thức đã học. Biện pháp 3: Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học. Để mang lại hiệu quả cao trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học tôi tập trung hướng dẫn học sinh biết cách làm việc với đồ dùng và rèn các kĩ năng sau: a) Giúp học sinh có kĩ năng quan sát và kể lại, trình bày lại diễn biến cuộc kháng chiến qua bản đồ , lược đồ, tranh ảnh Qua 2 bài đầu, môn Lịch sử - Địa lí đã hướng dẫn cho các em kĩ năng quan sát, chỉ, mô tả, kể những sự kiện lịch sử trên bản đồ, lược đồ. Vì vậy, một số bài có bản đồ, lược đồ, giáo viên cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, dễ cho học sinh quan sát. Phóng to để hấp dẫn, thu hút sự chú ý, giúp các em có ấn tượng sâu sắc và không bị quên lãng khi học xong. GV có thể hướng dẫn các em khai thác qua các bước: + Giới thiệu nội dung bản đồ, lược đồ, tranh ảnh + G
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_day_hoc_tich_cuc_nham_nang_cao_chat_lu.doc