SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học

 “Mục tiêu của Giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).

 Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội.

 Nhận thức rõ tầm quan trọng cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng, ngày 20 tháng 7 năm 2010 Bộ giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT triển khai việc giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học; dựa trên cơ sở những định hướng của đợt tập huấn tăng cường giáo dục kỹ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Bộ giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống (KNS) lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục KNS cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Học để tự tin, tự lập. Giáo dục KNS cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh.

Trong thực tế hiện nay việc rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ năng sống cho học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục KNS cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của học sinh. Chính sự cần thiết trên tôi nhận thấy cần phải có các biện pháp chỉ đạo để giáo viên làm tốt việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nên tôi xin đề xuất: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình có những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này, trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm.

 

doc 21 trang thuychi01 7162
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài: 
 “Mục tiêu của Giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).
 Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội.
 Nhận thức rõ tầm quan trọng cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng, ngày 20 tháng 7 năm 2010 Bộ giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT triển khai việc giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học; dựa trên cơ sở những định hướng của đợt tập huấn tăng cường giáo dục kỹ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Bộ giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống (KNS) lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục KNS cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Học để tự tin, tự lập. Giáo dục KNS cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh. 
Trong thực tế hiện nay việc rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ năng sống cho học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục KNS cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của học sinh. Chính sự cần thiết trên tôi nhận thấy cần phải có các biện pháp chỉ đạo để giáo viên làm tốt việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nên tôi xin đề xuất: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình có những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này, trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
	Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
	- Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường TH Ngư Lộc I. 
	- Các biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
	- CBGV, HS trường Tiểu học Ngư Lộc I.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
	- Tìm hiểu thực tế.
	- Tổng hợp, thống kê.
	- Dự giờ một số môn học có lồng ghép giáo dục kỹ năng sống.
	- Phỏng vấn GV, HS trong trường.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN
	Như phần mở đầu đã nêu, mục tiêu giáo dục là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về nội dung giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật và có một số kỹ năng sống cơ bản phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
	Trong nhiệm vụ năm học 2017-2018, Bộ giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ “Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống” ....
	Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này.
	Vậy giáo dục KNS là một tiến trình giáo viên trang bị cho trẻ kiến thức; giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng‎ vào các sinh hoạt thường ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói quen tốt.
*Kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
- Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy v.v
- Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v
Ở tiểu học, đối với các lớp đầu cấp, kỹ năng cơ bản được xem trọng, còn các lớp cuối cấp nâng dần cho các em về kỹ năng nâng cao. Theo đó, chúng ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống sau đây:
a) Nhóm kỹ năng giao tiếp – hòa nhập cuộc sống:
- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè thầy cô giáo.
- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể HS được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai.       
- Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là kỹ năng quan trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu chúng ta không rèn luyện thường ngày.
b) Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí:
- Các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết, kỹ năng quan sát, kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm bạn.
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
- Kỹ năng kiểm soát tình cảm – kỹ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác.
- Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động.
	Thực tế các kỹ năng này được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học, bài học mà tập trung nhiều nhất là môn Đạo đức và Tiếng Việt. Song, để có hiệu quả cao, chúng ta cần tổ chức tốt các biện pháp sau đây:
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy KNS cho các em.
- Quán triệt mục tiêu giảng dạy môn Đạo đức, nhất là hình thành các hành vi đạo đức ở tiết 2. Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác kiểm tra đánh giá phân loại hạnh kiểm của học sinh, rèn cho học sinh khả năng tự học, tự chăm sóc bản thân, biết lễ phép, hiếu thảo, tự phục vụ bữa ăn và vệ sinh cá nhân.
- Tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa, “diễn đàn” ở phạm vi lớp khối của mình. Mỗi năm học sẽ có một số chủ đề rèn luyện KNS được triển khai. Trong đó nhà trường cần phát huy vai trò của tổ chức Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng theo các chủ điểm hàng tháng. Đưa trò chơi dân gian, hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian vào trường học, qua đó mà rèn luyện KNS cho học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng. Với học sinh tiêu học, thày cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Giáo dục KNS cho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương.
- Cần tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục tiêu buổi chào cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong tuần qua của giáo viên trực, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban giám hiệu nhà trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm.
- Xây dựng trường, lớp an toàn – xanh - sạch - đẹp. Trong đó cần chú trọng tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam, các câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục KNS cho các em.
 - Tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi bằng các hình thức như Rung chuông vàng, Thi kể chuyện về Bác Hồ.
	Dạy KNS cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết ở các trường tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung về rèn luyện KNS chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục đạo đức, tiếng Việt hay trong các tiết chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy, các em chưa được trang bị đầy đủ các KNS. Đó là điều đang còn khó khăn, lúng túng cho các nhà trường nhằm rèn luyện KNS cho học sinh. Một trong những mục tiêu được chú trọng trong năm học mà Bộ GD-ĐT yêu cầu là tăng cường giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh tiểu học. Tuy nhiên, làm thế nào để triển khai hoạt động rèn KNS một cách hiệu quả thu hút được học sinh và các bậc phụ huynh đang là trăn trở của các thầy cô giáo, các nhà trường và toàn xã hội hiện nay.
	Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.	
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.2.1. Về phía phụ huynh
	Qua tìm hiểu nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng thực hành xã hội là do một số phụ huynh chỉ khuyến khích con em mình học các môn văn hóa mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình. Ví dụ: Chỉ cho con tham gia ôn luyện đội tuyển Văn – Toán, Tiếng Anh, viết Chữ đẹp, không tự nguyện cho tham gia thi Văn nghệ, bóng đá, điền kinh...
 	Một số gia đình phụ huynh học sinh cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình chưa chuẩn mực, nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Ngoài ra, một trở ngại lớn nữa đó là một số các bậc cha mẹ làm nghề đánh bắt hải sản, nghề tự do, hoàn cảnh kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, ngày ngày mải mê công việc, bươn chải lo toan cuộc sống nên rất ít có thời gian hoặc điều kiện để quan tâm dạy dỗ con em trong các sinh hoạt và hoạt động cần thiết. Nhiều em đến trường tỏ ra khá lầm lì hoặc đôi khi lại nói quá nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
2.2.2. Về phía giáo viên.
	Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế và dự giờ của một số giáo viên trong nhà trường cho thấy một số giáo viên còn lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ cần rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì? Trong bài soạn đã thể hiện rõ trong mục tiêu nhưng khi giảng bài thì việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống còn hạn chế, chưa làm thường xuyên, có làm cũng chỉ lấy lệ. 
	Trong trường, một số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm giảng dạy và công tác chủ nhiệm, kỹ năng sống nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi nhiệt tình, năng động, nhưng lại hạn chế về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm giảng dạy và công tác chủ nhiệm. 
	Việc nhận thức về rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường còn bị một bộ phận giáo viên coi nhẹ và làm chưa triệt để. Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học trong nhà trường đã thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao.
	Một số hoạt động giáo dục kĩ năng sống trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp đã tổ chức song nội dung còn chung chung, vẫn chưa có kế hoạch cụ thể, chưa có sự đầu tư thích đáng nên chưa đánh động được ý thức tự giác, tích cực rèn luyện của học sinh....
2.2.3. Về phía học sinh 
- Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, phần lớn các em còn rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu một số em diễn đạt còn lúng túng, chưa rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu. Một số em chưa biết nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè (học sinh khối lớp 1, 2). Đối với khối lớp 3, 4, 5 tuy độ tuổi có lớn hơn song về mặt tâm sinh lý phát triển chưa ổn định, tính cách hiếu động,HS học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Kỹ năng giao tiếp hạn chế, vẫn còn có hiện tượng nói tục, chửi bậy. Nhiều học sinh chỉ biết học kiến thức các môn Văn – Toán..., khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau.
Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể học sinh được dạy kỹ năng giao tiếp, cách chào hỏi lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai.
Tóm lại, qua thực tế điều tra khảo sát học sinh trong trường tiểu học Ngư Lộc I còn có một số biểu hiện sau:
- Có một số hành vi ứng xử sai lệch chuẩn mực đạo đức xã hội .
- Nhiều học sinh thành tích học tập rất tốt, nhưng kĩ năng sống rất thấp (thể hiện khi giao tiếp, tham gia các hoạt động xã hội )
- Sự bùng nổ thông tin, nhất là game onlin - ảnh hưởng bởi các trò chơi mang tính bạo lực, học sinh bị cuốn vào điện tử quên nhiệm vụ học tập. 
2.3.4. Kết quả khảo sát cụ thể như sau: ( thời điểm tháng 9 năm 2017).
*HS khối 1:
Tổng
Số HS
Tự mặc quần áo
Biết chào hỏi lễ phép với người lớn
Tự mình mặc quần áo
Cần người lớn giúp 
Tự giác không cần nhắc nhở
Chưa tự giác, bố mẹ phải nhắc nhở 
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
125
48
38,4
77
61,6
70
56
55
44
* HS lớp 3A: Nội dung khảo sát: Thảo luận nhóm . Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết TNXH.
Tổng
Số HS
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
35
21
60
14
40
*HS lớp 5B: Nội dung khảo sát: ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian tập thể. Khảo sát qua quan sát thực tế, kết hợp với GV chủ nhiệm, Tổng phụ trách Đội đánh giá HS:
Tổng
Số hS
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Ứng xử hài hoà, khá phù hợp
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi
SL
%
SL
%
35
19
54,3
16
45,7
* Toàn trường:
Tổng
Số học sinh
Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh lớp tốt, bỏ rác đúng nơi quy định. Bảo vệ của công.
Giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh lớp chưa tốt, đôi lúc chưa bỏ rác đúng nơi quy định.
SL
%
SL
%
753
497
66
256
34
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
	Giải pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường hiểu vị trí, tầm quan trong của việc tăng cường rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học. 
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, ấn tượng về những người thầy đầu tiên luôn in đậm trong kí ức của trẻ thơ. Thầy cô giáo luôn là thần tượng của các em. Cô giáo nói cái gì cũng “ hay”, cũng “đúng” và các em coi đó là cái chuẩn mực. Bởi vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nên bắt đầu từ người thầy. Người giáo viên luôn phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Từ lời nói, hành động, cử chỉ, giao tiếp đến vốn kiến thức, khiến phụ huynh và học sinh thực sự yên tâm. Nhà trường cần xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, tôn trọng, giúp đở lẫn nhau, làm cho các em cảm thấy thật sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Thực hiện tốt công tác vệ sinh trường, lớp; bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh.
- Để thực hiện tốt công tác giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh, trong các buổi họp chuyên môn đầu năm, Tôi đã triển khai nội dung học tập, tuyên truyền tới toàn thể cán bộ giáo viên nhà trường sau đó cụ thể hoá tới từng tổ chuyên môn, trên tinh thần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng cũng như tính mục đích của việc phải tăng cường rèn kỹ năng sống cho học sinh qua tích hợp các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. 
- Sau khi xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên môn, tôi triển khai tới các tổ chuyên môn bằng văn bản chỉ đạo. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn đầu năm, tổ chức tập huấn lại cho cán bộ giáo viên trong nhà trường về: Vai trò, tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh. Các kỹ năng sống cần cung cấp cho đối tượng học sinh Tiểu học. Phương pháp dạy kỹ năng sống qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt là các địa chỉ lồng ghép với các bộ môn: Đạo đức, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Khoa học. Các bài tập tình huống về kỹ năng sống và cách giải quyết. Kỹ năng tổ chức các trò chơi, tổ chức câu lạc bộ 
- Giáo dục kĩ năng sống cần thực hiện đồng nhất giữa các môi trường giáo dục: Gia đình - nhà trường - xã hội. Chính vì vậy nhà trường và giáo viên chủ nhiệm cần tuyên truyền tới cha mẹ học sinh về phương pháp để giáo dục cho con mình ngay ở gia đình – phối hợp ở nhà trường, cùng với nhà trường giáo dục kĩ năng sống cho con em mình. Những lới nói, hành vi chuẩn mực của cha mẹ ảnh hưởng rất lớn đến các em. Thầy cô giáo cần phối hợp với các bậc phụ huynh dạy các

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_giao_duc_ki_nang_song_cho_hoc.doc