Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng, phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh Tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng, phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh Tiểu học

Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh tiểu học:

 Đối tượng của cấp tiểu học là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. Bên cạnh sự phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý có ý chí chưa mạnh. Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học là phương tiện quan trọng để tổ chức sự chú ý cho học sinh. Nhu cầu hứng thú có thể kích thích và duy trì chú ý không chủ định cho nên giáo viên cần tìm cách làm cho giờ học hấp dẫn để lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích lũy vốn kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Đối với học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan - hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logíc. Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn còn thể hiện ở các lớp đầu cấp và sau đó chuyển dần sang tính khái quát ở các lớp cuối cấp. Trong quá trình dạy học và giáo dục, giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này. Vì vậy, trong dạy học lớp ghép, giáo viên cần đảm bảo tính trực quan thể hiện qua dùng người thực, việc thực, qua dạy học hợp tác hành động để phát triển tư duy cho học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phán đoán và suy luận qua hoạt động với thầy, với bạn. Học sinh tiểu học thường có nhiều nét tính cách tốt như hồn nhiên, ham hiểu biết, lòng thương người, lòng vị tha. Giáo viên nên tận dụng đặc tính này để giáo dục học sinh của mình nhưng cần phải đúng, phải chính xác, đi học đúng giờ, làm việc theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường lớp ghép.Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý, nhân cách của mỗi người. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ em.Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động.

 

doc 25 trang hoathepmc36 28/02/2022 22904
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng, phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHÙ CÁT
--------–&—----------
	 Mã số:..
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
NHÓM KHOA HỌC XÃ HỘI CẤP TIỂU HỌC
 NĂM HỌC: 2020 - 2021
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
Trang
1.
Đặt vấn đề
3
1.1.
 Lí do chọn đề tài: lý luận, thực tiễn.
3
1.2.
 Xác định mục đích nghiên cứu.
4
1.3.
 Đối tượng nghiên cứu.
4
1.4.
 Đối tượng khảo sát thực nghiệm.
4
1.5.
Phương pháp nghiên cứu.
4
1.6.
Phạm vi và thời gian nghiên cứu (bắt đầu, kết thúc).
4
2.
 Nội dung
4
2.1.
 Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu.
4
2.2.
 Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
5
2.3
 Mô tả, phân tích các giải pháp (hoặc biện pháp, các cách ứng dụng, cách làm mới) mà tác giả đã thực hiện, đã sử dụng nhằm làm cho công việc có hiệu quả hơn.
6
2.4.
 Kết quả thực hiện: Tổng hợp kết quả, số liệu minh họa, đối chiếu, so sánh.
17
3.
 Kết luận và kiến nghị
18
3.1.
 Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về sáng kiến.
18
3.2.
 Các đề xuất, kiến nghị. 
19
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
 	1. Đặt vấn đề
	1.1. Lí do chọn đề tài: Lý luận thực tiễn.
 Ngay từ bé tôi đã mơ ước lên lên được làm người dạy trẻ và tôi quyết tâm vào nghề Sư phạm, tôi đã coi đó là: “cái nghề mình đã chọn, cái nghiệp mà mình phải theo” và gắn bó suốt đời. Xuất phát bởi một mục đích ấy nên tôi coi công việc hằng ngày của mình như một phần lẽ sống. Tôi muốn công việc mình đã và đang làm sẽ thực sự có ích cho cộng đồng, cho chính bản thân mình. Do vậy nên tôi thường trăn trở tìm mọi cách để công việc của mình thu được kết quả. Kết quả ấy nằm ngay trong chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh qua mỗi năm tôi dạy.Tôi nghĩ rằng: Nếu mình yêu thích công việc của mình thì mình sẽ làm được tốt.Trẻ cũng vậy, các em đạt được thành tích khen toàn diện hay khen từng mặt thì chính các em cũng phải yêu thích công việc của mình. Vậy làm thế nào để các em yêu thích công việc học tập của mình?Làm thế nào để các em yêu thích các hoạt động ở trường? Để đạt được điều đó trước tiên các em phải thích học, thích tham gia các hoạt động.Từ kinh nghiệm thực tế tôi nhận thấy học sinh thích đi học là những học sinh tìm được niềm vui khi tới lớp, các em được thầy yêu, bạn mến và việc học tập đối với các em không mấy vất vả. Học sinh đến trường phải có niềm vui, có vui mới học được tốt. Trong buổi Hội nghị CBCV nhà trường năm học 2019-2020, đồng chí Hiệu trưởng có kêu gọi tập thể giáo viên trong trường “làm thế nào mỗi ngày học sinh đến trường là một ngày vui để xây dựng, hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho các con ?”.Tôi rất tâm đắc với ý kiến trên. Bởi ý kiến đó đã trùng lặp với điều mình hằng băn khoăn bao lâu nay. Vào năm học mới, tôi định hướng trước cho mình phải gây được tâm thế cho học sinh trong những ngày đầu năm học để rồi dẫn dắt các em bước vào năm học đầy tự tin và phấn khởi. Để có được kết quả tưởng chừng như đơn giản thế thôi nhưng cách thức để đi đến cái đích đó thật không đơn giản chút nào. Có được niềm vui cho trẻ không phải tạo ra được từ một giờ học, một ngày học hay một tuần học mà phải lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh trên một bình diện rộng ở mọi nơi, mọi lúc, qua giao tiếp, qua cách cư xử, bảo ban của giáo viên cho học sinh. Do vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật nhẫn nại, có tình thương thực với học trò. Chỉ có tình thương yêu thực sự và lòng cảm thông của cô mới đem lại niềm vui cho học sinh khi đi học. Học sinh tiểu học là giai đoạn tất yếu của quá trình học. Đó là giai đoạn mở đầu cho một con người đến với văn hoá. Cũng từ giai đoạn này nhân cách của học sinh được hình thành và dần dần phát triển. Ví như trong xây dựng cơ bản, khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại thì việc xử lý nền móng là hết sức quan trọng mà nền móng của ngôi nhà lại nằm dưới đáy nhà và một phần sâu trong lòng đất nên những người bình thường thì không nhìn thấy được mà chỉ có những nhà chuyên môn mới quan tâm và nhìn thấy bản chất, tầm quan trọng, giá trị đích thực của nền móng đó. Giai đoạn học sinh ở bậc tiểu học nhất là giai đoạn lớp một với học sinh là hết sức quan trọng. Đây chính là giai đoạn nền móng của quá trình phát triển năng lực tư duy và đặc biệt là quá trình phát triển nhân cách của học sinh sau này. Học sinh tiểu học rất ngây thơ, tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, vẽ lên đó đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô chủ nhiệm. Đặc biệt là khi các trường có điều kiện tổ chức cho các em học ngày hai buổi thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp với thầy cô chủ nhiệm, với bạn bè. Nếu trong quãng thời gian đó các cháu không may gặp phải người “thợ vẽ tồi”, người công nhân xây dựng thiếu trách nhiệm thì suốt đời “trang nhân cách” của các em sẽ giữ lại vết hằn khó xoá. Nhận thức được tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là chủ nhiệm lớp hai tôi luôn tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm gương cho học sinh về cách ăn nói mẫu mực, xử sự với học trò đúng mực“ nghiêm túc” nhưng“ thân thiện ” thực sự có lòng yêu thương thông cảm với các em sao cho các em cảm nhận cô giáo như người mẹ thứ hai của các em , là chỗ để các em tin cậy về mặt tinh thần nhưng không quá thân thiết để học sinh có thể bỡn cợt quên khoảng cách giữa giáo viên và học sinh. Xã hội càng phát triển, nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự suy giảm về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ thế hệ thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước. Là một người giáo viên, với suy nghĩ góp phần nhỏ bé của mình đào tạo thế hệ trẻ, tôi luôn suy nghĩ, trăn trở tìm ra phương án tốt nhất để góp phần mình giáo dục học sinh không chỉ có đầy đủ kiến thức cập nhật đảm bảo yêu cầu của xã hội mà còn là những em học sinh ngoan ngoãn trở thành người có ích cho đất nước. Chỉ mong thế hệ măng non này lớn lên sẽ đủ lông đủ cánh gánh vác vận mệnh giang sơn không thua kém bạn bè các nước trong khu vực và trên thế giới. Giáo viên, đặc biệt lại là giáo viên Tiểu học - một người thấy tổng thể không chỉ dạy các em tri thức mà còn dạy các em cách làm người, hình thành những nhân cách ban đầu cho trẻ.Vậy phải làm thế nào để đạt được những yêu cầu này? Đó là một câu hỏi khó không phải ai cũng tìm được câu trả lời. Thấy rõ vấn đề này, tôi luôn coi trọng cả hai lĩnh vực dạy chữ và dạy người trong công tác giáo dục. Một mặt học tập đồng nghiệp, trau dồi thêm chuyên môn để không ngừng phát triển về năng lực giảng dạy, mặt khác tôi luôn coi trọng giáo dục đạo đức học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp. Hơn nữa, trong một vài năm gần đây, việc đánh giá học sinh tiểu học không chỉ dừng lại ở kiến thức, văn hóa và hạnh kiểm tốt như truyền thống. Mà theo thông tư 22 của Bộ giáo dục ban hành, các con học sinh Tiểu học được khen thưởng toàn diện, xuất sắc khi các môn văn hóa đều hoàn thành tốt và yêu cầu về năng lực, phẩm chất cũng vậy.Thế năng lực, phẩm chất đánh giá về những phương diện gì? 
 * Về năng lực, học sinh phải đạt được: Tự phục vụ, tự quản. Hợp tác. Tự học và giải quyết vấn đề.
 * Về phẩm chất, học sinh phải đạt được: Chăm học, chăm làm. Tự tin, trách nhiệm .Trung thực, kỉ luật. Đoàn kết, yêu thương. Xuất phát từ những suy nghĩ như vậy tôi đã chọn cho mình đề tài: “Một số biện pháp xây dựng, phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh Tiểu học”, đúc rút một số kinh nghiệm về công tác này đồng thời mong được bạn bè đồng nghiệp bổ sung góp ý thêm để công tác này có hiệu quả trong trường học. 
1.2. Xác định mục đích nghiên cứu.
Từ thực trạng trên, đề tài tìm ra những nguyên nhân mà công tác chủ nhiệm chưa đạt hiệu quả. Qua đó đề xuất một số biện pháp hữu hiệu để giáo viên làm tốt công tác xây dựng, phát triển năng lực và phẩm chất và luôn đẩy mạnh được phong trào học tập.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	1. Đối tượng nghiên cứu: Một số kinh nghiệm của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn trong những năm học vừa qua.
 2. Vận dụng ở lớp trong lớp 4A3 trường Tiểu học ...., năm học 2019 – 2020.
 1.4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm.
	- Học sinh khối 3 trường Tiểu học ...
 	1.5. Phương pháp nghiên cứu.
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, trực quan, nêu gương, hỏi đáp ... 
3. Các phương pháp hỗ trợ: Thống kê mô tả, ...
	1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu.
- Tháng 8/ 2019: Đăng kí đề tài, lập đề cương.
- Tháng 9/ 2019: Điều tra thực trạng nề nếp lớp học và lí lịch của học sinh ở lớp và xử lí các số liệu điều tra.
- Tháng 10/ 2019 đến tháng 12/ 2019: Thống kê, phân tích các số liệu.
- Tháng 01/ 2020 đến tháng 6/ 2020: Viết đề tài, báo cáo sơ bộ.( Từ ngày 20/1/2020 đến ngày 3/5/2020 nghỉ tết Nguyên Đán và tiếp tục nghỉ dịch covid – 19)
- Tháng 7/ 2020: Chỉnh sửa và hoàn thiện đề tài.
	2. Nội dung
	2.1. Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu.
 Cơ sở lí luận: 
 Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh tiểu học: 
 Đối tượng của cấp tiểu học là trẻ em từ 6 đến 11 tuổi. Học sinh tiểu học là một thực thể hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng. Ở mỗi trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển về trí tuệ, lao động, rèn luyện và hoạt động xã hội để đạt một trình độ nhất định về lao động nghề nghiệp, về quan hệ giao lưu và chăm lo cuộc sống cá nhân, gia đình. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. Bên cạnh sự phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý có ý chí chưa mạnh. Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học là phương tiện quan trọng để tổ chức sự chú ý cho học sinh. Nhu cầu hứng thú có thể kích thích và duy trì chú ý không chủ định cho nên giáo viên cần tìm cách làm cho giờ học hấp dẫn để lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích lũy vốn kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Đối với học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan - hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logíc. Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn còn thể hiện ở các lớp đầu cấp và sau đó chuyển dần sang tính khái quát ở các lớp cuối cấp. Trong quá trình dạy học và giáo dục, giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này. Vì vậy, trong dạy học lớp ghép, giáo viên cần đảm bảo tính trực quan thể hiện qua dùng người thực, việc thực, qua dạy học hợp tác hành động để phát triển tư duy cho học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phán đoán và suy luận qua hoạt động với thầy, với bạn. Học sinh tiểu học thường có nhiều nét tính cách tốt như hồn nhiên, ham hiểu biết, lòng thương người, lòng vị tha. Giáo viên nên tận dụng đặc tính này để giáo dục học sinh của mình nhưng cần phải đúng, phải chính xác, đi học đúng giờ, làm việc theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường lớp ghép.Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý, nhân cách của mỗi người. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ em.Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động. Tình cảm học sinh tiểu học được hình thành trong đời sống và trong quá trình học tập của các em. Vì vậy giáo viên dạy học lớp ghép cần quan tâm xây dựng môi trường học tập nhằm tạo ra xúc cảm, tình cảm tích cực ở trẻ để kích thích trẻ tích cực trong học tập. Đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thể hiện ở tư duy ngôn ngữ - logíc dừng lại ở mức độ trực quan cụ thể. Ngoài ra tâm lí của học sinh dân tộc còn bộc lộ ở việc thiếu cố gắng, thiếu khả năng phê phán và cứng nhắc trong hoạt động nhận thức. Học sinh có thể học được tính cách hành động trong điều kiện này nhưng lại không biết vận dụng kiến thức đã học vào trong điều kiện hoàn cảnh mới. Vì vậy trong môi trường lớp ghép giáo viên cần quan tâm tới việc việc phát triển tư duy và kỹ năng học tập cho học sinh trong môi trường nhóm, lớp.Việc học tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình, điều kiện địa lý và các yếu tố xã hội khác đòi hỏi nhà trường, gia đình, xã hội cần có sự kết hợp chặt chẽ để tạo động lực học tập cho học sinh. 
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
 1. Thuận lợi:
 Giáo viên chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của Ban giám hiệu, của Công đoàn giáo dục cơ sở cùng sự giúp đỡ của tất cả các đoàn thể trong Hội đồng trường. Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng.
 Lực học của học sinh khá đồng đều. Hầu hết các phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học của các em. Cơ sở vật chất dạy và học của trường khang trang, đầy đủ các phòng học bộ môn, phòng chức năng, phòng truyền thống, phòng học thoáng mát, sân tập TDTT, nhà vệ sinh sạch sẽ ...
2. Khó khăn: 
 Đầu năm học 2019 - 2020, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2A3. Lực học của các em phần lớn tiếp thu nhanh nhưng có nhiều em chưa chăm học, nghịch ngợm ảnh hưởng đến kết quả học tập. Một số em do điều kiện gia đình bố mẹ đi làm xa ở tỉnh khác... vài tháng, có khi cả năm mới về một lần. Các em ở với ông bà nên gần như khoán trắng việc học của con em cho nhà trường, cho giáo viên. 
Kết quả khảo sát lớp 2A3- lớp do tôi làm chủ nhiệm- tháng 10 năm 2019:
 Về Năng lực và Phẩm chất các em đều đạt ở mức Tốt và Đạt, không có em nào ở mức Cần cố gắng.
NĂNG LỰC
Tổng số HS
Tự phục vụ, tự quản
Hợp tác
Tự học,giải quyết vấn đề
35
Tốt
Đạt
Tốt
Đạt
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5
14,3
30
85,7
7
20,0
28
80,0
7
20,0
28
80,0
PHẨM CHẤT
Tổng số HS
Chăm học, chăm làm
Tự tin, trách nhiệm
Trung thực, kỉ luật
Đoàn kết, yêu thương
35
Tốt
Đạt
Tốt
Đạt
Tốt
Đạt
Tốt
Đạt
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7
20,0
28
80,0
8
68,2
8
22,9
12
34,3
23
65,7
14
40,0
21
60,0
 Nhìn vào bảng trên, tôi thấy nền nếp lớp chưa tốt, về năng lực và phẩm chất của các em tỉ lệ còn thấp , chưa chăm chỉ học hành. Vì vậy, giáo viên cần phải có biện pháp thích hợp nhằm giúp lớp nền nếp tốt, phát huy khả năng, năng lực và phẩm chất của các em.
2.3. Mô tả, phân tích các giải pháp (hoặc biện pháp, các cách ứng dụng, cách làm mới) mà tác giả đã thực hiện, đã sử dụng nhằm làm cho công việc có hiệu quả hơn.
 2.3.1. Nắm vững tình hình lớp:
 Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những đều ấy một cách tường tận? Theo tôi, đó là tiếp cận với lớp chủ nhiệm nghĩa là chúng ta phải tiếp xúc gần gũi trò chuyện tìm hiểu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích của các em. Vì vậy trước tiên khi phụ trách lớp, tôi đã tìm hiểu học sinh và tâm tư nguyện vọng của phụ huynh rồi tiến hành làm các công việc sau:
. Bước 1: Điều tra lí lịch cơ bản của học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên của năm học mới với các nội dung sau: 
SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH
1. Họ và tên học sinh:. Giới tính: ..................
2. Ngày . tháng. năm sinh Dân tộc:.... Tôn giáo:..............
3. - Địa chỉ thường trú: ...........................................................................................
4. - Họ, tên cha: ...Nghề nghiệp:.. Số điện thoại:.....
 - Họ, tên mẹ: .Nghề nghiệp:...Số điện thoại:......
5. Số anh.. chị... em.. trong gia đinh.
6. Điều kiện kinh tế gia đình:..................................................................
7. - Xếp loại của năm học 2018 - 2019:
 - Học lực:.Năng lực:............................Phẩm chất.......................
 - Chức vụ đã làm ở năm học 2018 - 2019:..................................................
8. Năng khiếu:.. Sở thích:..............
9. Các bạn thân hiện nay:............................................................................
10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này:
...................................................
...................................................
11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường:
................................................................................................................................ 
...................................................
12. PHHS có đề nghị gì với nhà trường và GVCN ?
...........
...........
...........
...................................................
...................................................
...................................................
...................................................
...................................................
 ........., ngày..... tháng..... năm........
 Phụ huynh 
 Bước 2: Từ đó, tôi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em bởi giáo dục không phải là một công thức chung có sẵn. Bên cạnh đó, tôi còn trò chuyện với giáo viên chủ nhiệm của năm trước, liên hệ các giáo viên bộ môn trong lớp để có thêm những thông tin chính xác về các em.
 Bước 3: Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung cấp số điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia đình học sinh qua điện thoại. Đây là sự liên hệ hai chiều qua lại giữa nhà trường với gia đình, giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh. Bằng các hình thức liên hệ đó, tôi sẽ nắm được những diễn biến về đạo đức, về học tập của các em có thể đánh giá hiệu quả những tác động sư phạm đồng thời điều chỉnh phương pháp giáo dục sao cho phù hợp. Vì đạo đức, học lực của từng em luôn biến đổi từng giờ, từng ngày chứ không phải là bất biến theo kiểu “ Đầu sao đuôi vậy”.
 * Tạo nhóm Zalo với cha mẹ học sinh để thông báo những vấn đề chung của lớp mình chủ nhiệm.
 * Tạo nhóm Zalo với giáo viên dạy chuyên để trao đổi về các thông tin qua trình học tập của các em.
 * Tạo nhóm Zalo với giáo viên dạy cùng tổ chuyên môn để hiểu thêm về tâm lí của trẻ cùng lứa tuổi.
 Nhìn chung là thường xuyên dùng công nghệ thông tin, Internet để cập nhật liên tục thông tin để giáo dục các em kịp thời và hiệu quả.
2.3.2. Xây dựng và phát triển năng lực, phẩm chất cho trẻ thông qua nề nếp lớp, giờ ra chơi và giờ hoạt động tập thể. 
 Qua quan sát tìm hiểu tôi nhận thấy những ngày đầu năm học, các con học sinh lớp tôi có những ưu điểm: 
 * Về năng lực: 
 - Tự phục vụ, tự quản: đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ.
 - Hợp tác: Biết hợp tác với bạn để giải quyết các vấn đề.
 - Tự học, giải quyết vấn đề: biết tìm kiếm sự giúp đỡ của thầy cô giáo.
 * Về phẩm chất: 
 - Chăm học, chăm làm: biết giữ vệ sinh lớp học. 
 - Tự tin,trách nhiệm: biết nhận lỗi khi sai.
 - Trung thực, kỉ luật: không biết nói dối.
 - Đoàn kết, yêu thương: yêu quý thầy cô giáo. 
 Bên cạnh đạt được các nề nêp trên các con còn có rất nhiều những mặt hạn chế về năng lực và phẩm chất như: đi học muộn, chưa biết chuẩn bị đồ dùng học tập, còn rụt rè, chưa tích cực tham gia hoạt động tổ, nhóm, chưa biết phối hợp với bạn bè trong lớp.Vậy, tôi cần phải làm gì để phát huy những điểm mạnh và giải quyết những mặt hạn chế của các con lớp mình? Như chúng ta đã biết ngoài việc xây dựng, hình thành năng lực, phẩm chất cho trẻ thông qua các bài giảng ở trên lớp của tất cả các bộ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_xay_dung_phat_trien_n.doc