SKKN Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11

SKKN Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11

Sự phát triển như vũ bão của Công nghệ Thông tin và Truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại. Đảng và nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học. Công nghệ Thông tin và Truyền thông cũng như yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ Thông tin, đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên nhà nước đã đưa môn tin học vào trong nhà trường và ngay từ bậc tiểu học học sinh được tiếp xúc môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng ban đầu để học những phần nâng cao tiếp theo. Mặc dù vậy, việc học tin học ở trường trung học phổ thông của học sinh vẫn chưa đạt hiệu quả, phần đông học sinh chưa phát huy tính tích cực, còn thụ động, ỷ lại. Nhằm giúp học sinh tham gia một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn. Là giáo viên môn tin học tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh hiểu và yêu thích môn học, tích cực và húng thú trong từng tiết học. Điều trăn trở đó chỉ được thực hiện khi đổi mới cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tích tích cực của học sinh là một trong những nhiệm vụ của năm học, năm học với chủ đề trường học thân thiện, học sinh tích cực.

 

doc 20 trang thuychi01 5890
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1
	Lý do chọn đề tài
2
1.2
	Mục đích của đề tài
3
1.3
	Đối tượng nghiên cứu:
4
1.4
	Phương pháp nghiên cứu:
4
2. NỘI DUNG
2.1
	Cơ sở lý luận:
5
2.2
	Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
6
2.3
	Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
7-17
2.4
	Kết quả đạt được:
17
3. KẾT LUẬN
3.1
	Những kết luận và bài học kinh nghiệm:
18
3.2
	Đề xuất, Kiến nghị
19
	Tài liệu tham khảo
20
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nội dung
GV
HS
SGK
THPT
Giáo viên
Học sinh
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Sự phát triển như vũ bão của Công nghệ Thông tin và Truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại. Đảng và nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học. Công nghệ Thông tin và Truyền thông cũng như yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ Thông tin, đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên nhà nước đã đưa môn tin học vào trong nhà trường và ngay từ bậc tiểu học học sinh được tiếp xúc môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng ban đầu để học những phần nâng cao tiếp theo. Mặc dù vậy, việc học tin học ở trường trung học phổ thông của học sinh vẫn chưa đạt hiệu quả, phần đông học sinh chưa phát huy tính tích cực, còn thụ động, ỷ lại. Nhằm giúp học sinh tham gia một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại thì phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn. Là giáo viên môn tin học tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh hiểu và yêu thích môn học, tích cực và húng thú trong từng tiết học. Điều trăn trở đó chỉ được thực hiện khi đổi mới cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tích tích cực của học sinh là một trong những nhiệm vụ của năm học, năm học với chủ đề trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Hiện nay, trong phân phối chương trình THPT có sự thay đổi giảm tải, và môn Tin học cũng vậy. Có những bài học sinh không phải học mà chỉ đọc tham khảo thêm, hoặc có những bài được lược bớt đi một mục. Nhưng để đảm bảo đủ số tiết học nên có những tiết được bổ sung như tiết bài tập hoặc bài tập và thực hành để giúp học sinh hiểu rõ và nắm vững hơn kiến thức lý thuyết đã học. Tuy nhiên với những tiết bài tập, bài tập thực hành này trong sách giáo khoa và sách giáo viên chưa có những hướng dẫn cụ thể để được một chuẩn chung giống như những tiết lý thuyết. Trong những trường hợp như vậy, giáo viên sẽ linh động dựa vào đối tượng học sinh của mình, để cung cấp cho học sinh những bài tập làm trên lớp hay những bài tập trong thực hành, nhằm củng cố cũng như giúp học sinh hiểu rõ hơn những kiến thức đã học ở phần lý thuyết.
Có thể nói Tin học 11 khó nhất đối với học sinh trong khối lượng kiến thức THPT. Để hiểu được học sinh phải tư duy, và cũng chính điều đó học tin học 11 giúp học sinh phát triển tư duy tốt hơn. Do đó, vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào bài học càng trở nên cần thiết và hữu ích hơn để học sinh hiểu rõ hơn những kiến thức đã học ở phần lý thuyết, từ đó có kỹ năng vận dụng lý thuyết vào các bài tập thực hành cụ thể.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi không ngừng phấn đấu trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức các môn liên quan, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm để hoàn thiện hơn trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy bản thân đã rút ra kinh nghiệm nhỏ trong việc tổ chức hoạt động dạy học là: tôi đã đưa ra “Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11”, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh [4], giúp HS hiểu và nắm vững hơn đầu vào và đầu ra của một chương trình kiểu tệp, có kỹ năng sử dụng được các thủ tục liên quan kiểu tệp để giải quyết bài toán đặt ra. [7]
Tuy giờ dạy dựa vào trọng tâm kiến thức của chương trình và đối tượng học sinh, nhưng vẫn là mang tính chất dựa trên những kinh nghiệm cá nhân, mong được sự góp ý của đồng nghiệp. 
1.2. Mục đích của đề tài:
 Hiện nay các thành tựu của tin học được áp dụng ở hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội và đem lại nhiều thành quả to lớn. Mối quan hệ tương tác giữa các nhu cầu của xã hội ngày càng đa dạng và những tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã dẫn đến sự phát triển như vũ bão của tin học. Nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) ý thức được rất rõ tầm quan trọng của tin học và có những đầu tư lớn cho lĩnh vực này, đặc biệt trong giáo dục nâng cao dân trí về tin học và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là yêu cầu đặt ra cho bộ môn tin học nói riêng và toàn ngành giáo dục nói chung. Làm thế nào để học sinh được đào tạo tốt nhất, có chất lượng nhất luôn là mối quan tâm của nhiều thầy cô.
Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh [4], giúp học sinh có kỹ năng phân tích, xử lý các vấn đề liên quan đến kiểu dữ liệu tệp trong quá trình thực hành. Giáo viên hướng cho học sinh vận dụng kiến thức đã học ở tiết trước chuyển một số bài toán mà hoc sinh đã hiểu và thực hành các chương trình của các bài toán đã học trước đó sang bài toán kiểu tệp. Từ đó giúp học sinh sử dụng thuần thục, linh động khi xử lý kiểu tệp, học sinh sẽ thấy dễ hiểu và việc làm quen với các chương trình ở dạng tệp không còn là vấn đề khó nữa. Tại sao cần phải yêu cầu học sinh chuyển một số bài toán mà hoc sinh đã hiểu và thực hành các chương trình của các bài toán đã học trước đó sang bài toán kiểu tệp mà không lấy một bài toán mới? Nếu chúng ta đưa ra một bài toán mới, thì chúng ta phải cùng học sinh đưa ra input, output, ý tưởng, thuật toán, chương trình kiểu lâu nay vẫn làm, rồi chuyển chương trình đó sang chương trình sử dạng tệp và thao tác với tệp. Như vậy, thời gian cho 1 tiết học cũng chỉ giải quyết được một bài tập thì không đạt được mục tiêu đưa ra. Cũng nếu ta yêu cầu học sinh chuyển một số bài toán mà hoc sinh đã hiểu và thực hành các chương trình của các bài toán đã học trước đó sang bài toán kiểu tệp, nhưng không sử dụng phương pháp dạy học tích cực (có sử dụng máy chiếu), thì trong thời gian 1 tiết học sinh cũng chỉ thực hành được 2 bài tập. 
Chính vì điều đó, để tiết học có hiệu quả cao, đạt được mục tiêu của bài học một cách tốt nhất ta cần cho học sinh: “Chuyển một số bài toán mà hoc sinh đã hiểu và thực hành các chương trình của các bài toán đã học trước đó sang bài toán kiểu tệp và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các phương pháp đổi mới việc dạy và học.
Chất lượng giáo dục môn tin học qua các năm.
Học sinh lớp 11 Trường THPT Đông Sơn 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp điều tra quan sát.
	- Phương pháp thu thập thông tin.
Các bài kiểm tra đánh giá khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của học sinh. Phân loại học sinh theo khả năng.
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
	- Phương pháp ghi chép, thống kê, xử lý số liệu, đánh giá kết quả.
2. NỘI DUNG 
2.1. Cơ sở lý luận:
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra quá trình tin học hóa trên nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp, cuộc cách mạng thông tin đang dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cách sống và ngay cả cách suy nghĩ của chúng ta. Ngoài sự tò mò, ham hiểu biết càng sớm càng tốt mỗi người phải ý thức được rằng nếu không có hiểu biết về tin học thì khó có thể hòa nhập vào cuộc sống hiện đại.
Chính vì vậy việc học môn tin học lại càng quan trọng, nó là hành trang cho các em để tiến xa hơn vào cuộc cách mạng công nghệ thông tin hiện nay. Cấu trúc được xây dựng hợp lý cùng với những bài giảng sinh động, cộng thêm vào đó là sự hứng thú tìm hiểu, trao đổi của học sinh sẽ làm cho chất lượng môn tin học được nâng lên.
Giáo viên tin học là người giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức một giờ học, là yếu tố căn bản để các em phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của có thêm động lực, hứng thú khi học môn tin học.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999), đặc biệt tái khẳng định trong điều 5, Luật Giáo dục (2005): “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”[6]
Như vậy, có thể nói, phương pháp dạy học tích cực là hướng tới các hoạt động học tập chủ động, sáng tạo chống lại thói quen học tập thụ động, giáo điều. Chú ý tới việc rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, hình thành và phát triển các phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo, tạo nên các trạng thái tinh thần, tâm lý tích cực .
Điều 24 của Luật Giáo dục (12/1998) đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo cửa HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vuì, hứng thú học tập cho HS" [5].
Khi phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của HS trong học tập thì thì việc lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn; ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được bài thì HS lại có thêm hứng thú. Trên thực tế, những người không thích, không phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo khi học môn học nào đó thường là những người không học tốt môn học đó. Chính vì vậy, việc tạo phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của cho người học được xem là yêu cầu bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa học nào. 
Khi học sinh học xong bài học : Bài 14 – 15: Kiểu dữ liệu tệp - Thao tác với tệp và 2 ví dụ Bài 16. Nếu yêu cầu học sinh chuyển một chương trình đã hiểu và thực hành ở những tiết trước đấy sang chương trình sử dụng kiểu tệp, thì hầu hết học sinh đều cảm thấy lung túng, khó khăn và dễ nhầm lẫn trong việc xác định các thao tác xử lý tệp. Tiết 37- Bài tập thực hành này trong sách giáo khoa và sách giáo viên chưa có những hướng dẫn cụ thể để được một chuẩn chung giống như những tiết lý thuyết. Trong những trường hợp như vậy, giáo viên sẽ linh động dựa vào đối tượng học sinh của mình, để cung cấp cho học sinh những bài tập trong thực hành, nhằm củng cố cũng như giúp học sinh hiểu rõ hơn những kiến thức đã học ở phần lý thuyết. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đề xuất, đưa ra “Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11 ” để giúp HS hiểu và nắm vững hơn cách làm việc với tệp và thao tác với tệp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm:
Vấn đề là làm thế nào để học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học về tệp và thao tác với tệp vào lập trình cho từng bài toán đưa ra một cách linh hoạt khi giảng dạy tin học?
Đây là một vấn đề khó, không có một cách thức, con đường chung cho mọi người. Sự hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập, phụ thuộc nhiều yếu tố như phương pháp giảng dạy, phong cách, ngôn ngữ, cách thức tổ chức quá trình học tập của giáo viên; chương trình, còn phụ thuộc rất nhiều vào học sinh.
Vậy, thực tế vấn đề này như thế nào? Để tìm hiểu kết quả của học sinh xung quanh vấn đề vận dụng kiến thức lý thuyết đã học về tệp và thao tác với tệp vào lập trình trong một bài kiểm tra sau tiết 37 với 2 lớp 11A5 và lớp 11A6:
+ Lớp 11A5: Giáo viên cho học sinh tìm hiểu một dạng bài tập mới và hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lý thuyết đã học về tệp và thao tác với tệp vào lập trình bài toán này ở tiết 37.
+ Lớp 11A6: Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lý thuyết đã học về tệp và thao tác với tệp vào lập trình bài toán đã học trước đó ở tiết 37, nhưng sử dụng phương pháp truyền thống.
Kết quả bài kiểm tra:
Lớp
Giỏi(%)
Khá(%)
TB(%)
Yếu(%)
Kém (%)
11A5
25
35
32,5
7,5
0
11A6
23,91
52,14
21,74
2,17
0
Kết quả điều tra cũng cho thấy, để kỹ năng của học sinh trong làm việc với tệp và thao tác với tệp đươc tốt hơn ta cần phải có phương pháp tốt hơn, nhằm phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Cụ thể hơn, cơ bản vẫn là ở cách thức tổ chức giờ dạy của giáo viên, ở sự cuốn hút, hay nói cách khác là nghệ thuật của giáo viên khi lên lớp. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn kích thích hổ trợ học sinh lĩnh hội kiến thức bằng kinh nghiệm giáo dục của mình.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
a. Chuẩn bị:
Giáo viên:
- Lập kế hoạch bài dạy:
+ Đọc kỹ bài dạy nắm mục tiêu cần đạt
+ Kịch bản sư phạm
+ Dự kiến các tình huống xảy ra trong khi thảo luận nhóm.
- Dự kiến:
+ Cách chia nhóm, số lượng nhóm (vì là tiết bài tập thực hành nên mỗi máy là một nhóm)
+ Nhiệm vụ của các nhóm.
+ Thời gian thảo luận, trình bày
- Thiết kế bài giảng: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở nhằm khuyến khích học sinh tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
- Chuẩn bị: chuẩn bị chu đáo đồ dùng và thiết bị dạy học.
- Thực hiện kế hoạch dạy học
Học sinh:
- Giáo viên giao việc cho học sinh trước khi kết thúc một tiết học.
- Đưa ra câu hỏi cần thảo luận để học sinh chuẩn bị.
- Chuẩn bị kĩ kiến thức giáo viên yêu cầu.
b. Các bước tổ chức:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ:
- Nêu và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ một cách rõ ràng cho từng nhóm làm việc để mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm.
- Định thời gian làm việc của mỗi nhóm 
- Nêu cách thức làm việc của nhóm
- Cung cấp các thông tin liên quan với chủ đề.
- Thông báo công việc của giáo viên trong thời gian các nhóm làm việc.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thảo luận.
Bước 2: Chia nhóm
Những học sinh ngồi tại mỗi máy là một nhóm.
Cung cấp những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của nhóm.
Bước 3: Thảo luận nhóm
Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm
Giáo viên tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết.
- 	Giáo viên tổ chức hướng dẫn các hoạt động, gợi mở -vấn đáp[4], khuyến khích học sinh tích cực hoạt động.
- 	Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thảo luận nhóm
+ Trong quá trình học sinh thảo luận giáo viên theo dõi, quan sát và bổ sung khi cần.
+ Phát hiện các nhóm hoạt động không có hiệu quả uốn nắn điều chỉnh
+ Nắm chắc đặc điểm tâm lý của từng học sinh để kịp thời động viên khuyến khích nhằm tạo không khí phấn khởi tự tin trong học tập.
+ Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả năng độc lập, sáng tạo của học sinh.
+ Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò với trò
Bước 4: Tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía học sinh
+ Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả, thành viên trong nhóm có thể bổ sung.
+ Nhóm khác nghe để phát hiện – giải quyết vấn đề [4] nếu nhóm phát biểu trước đó chưa đúng lắm hoặc gần đúng, bổ sung kiến thức còn thiếu. từ đó làm nảy sinh ý thức vươn lên trước bạn bè của mỗi thành viên trong nhóm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh.
+ Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận.
Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: 
Khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. Trình chiếu kết quả đúng.
Sau đây là giáo án cụ thể mà tôi đã đưa ra “Một số bài tập thực hành và chuẩn bị cho tiết học theo phương pháp dạy học tích cực vào tiết 37 – Tin học 11”.
I. GV trình chiếu Slides1 để HS nắm được mục tiêu của bài học.
 Tin học 11
II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1. Giáo viên:
	- Sách giáo khoa, sách giáo viên tin học 11
	- Máy tính, máy chiếu
	- 4 bảng phụ, nam châm
	- Những nội dung có liên quan đến bài học
2. Học sinh: 
	- Học bài cũ.
	- Chuẩn bị nội dung, kiến thức liên quan giáo viên yêu cầu từ tiết trước
III. Phương pháp dạy học : gợi mở - vấn đáp, phát hiện và giải quyết vấn đề, so sánh, làm việc theo nhóm.
IV. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Ổn định lớp (1’).
2. Kiểm tra bài cũ (7’): GV trình chiếu Slides2 với nội dung:
Câu hỏi: Hãy nêu cách khai báo và các thao tác đối với tệp văn bản trong Pascal? Cho ví dụ?
(GV cho học sinh ghi câu trả lời vào 1 góc bảng)
Đáp án: 
Khai báo biến tệp văn bản có dạng :
 VAR : TEXT;
Gắn tên tệp:
ASSIGN(,); 
Ví dụ: ASSIGN(F2,'bai1.out');
- Câu lệnh mở tệp để ghi kết quả có dạng :
ASSIGN(F2,'bai1.out');
REWRITE(); 
 Ví dụ 
REWRITE(F2); 
Để chuẩn bị đọc dữ liệu từ tệp đã có ta mở tệp bằng câu lệnh :
RESET();
Ví dụ: Để đọc dữ liệu từ tệp DL.INP ta có thể mở tệp bằng :
ASSIGN(F1,’bai1.inp’);
RESET(F1);
- Đọc/ghi tệp định kiểu WRITE(,); {ghi xong không xuống dòng}
Hoặc WRITELN(,); {ghi xong xuống dòng}
Trong đó Tên biến là biến cùng kiểu với kiểu phần tử tệp.
 Ví dụ: WRITE(F2,S); 
Nếu tệp được mở bằng thủ tục RESET thì có thể đọc thông tin. Câu lệnh đọc có dạng:
READ(,); { đọc xong không xuống dòng}
 Hoặc READLN(,); { đọc xong xuống dòng}
Vd: readln(F1,n)
- Đóng tệp 
CLOSE();
VD: CLOSE(F1);
3. Nội dung bài học
a. Phương pháp : gợi mở - vấn đáp, phát hiện và giải quyết vấn đề, so sánh, làm việc theo nhóm.
b.Hình thức tổ chức hoạt động
Hoạt động 1(12’): Rèn luyên kỹ năng vận dụng các kiến thức đã học về khai báo và thao tác với tệp văn bản trong Pascal vào chương trình quen thuộc đã học ở các bài thực hành trước đó.
Hoạt động của GV
Hoạt động HS
Nội Dung
- GV chiếu nội dung bài tập 1 (slides3) lên bảng
- Chia mỗi máy là 1 nhóm và yêu cầu từng nhóm suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học về tệp( được GV ôn lại thông qua kiểm tra bài cũ và nội dung chính cũng đã viết lên góc bảng) điền vào những chỗ giáo viên gợi ý, hướng cho học sinh cách làm trên (Slides4). 
- Trong lúc các nhóm vừa thực hành trên máy vừa suy nghĩ cách làm, giáo viên sử dụng phương pháp gợi mở - vấn đáp [4] có thể gọi một số HS ở các nhóm khác nhau đứng tại chỗ trả lời để các nhóm còn lại có thể phát hiện và giải quyết vấn đề [4] tốt hơn.
- GV đi qua các máy để kiểm tra kết quả của các nhóm, gọi đại diện một số nhóm trả lời và giải thích.
- Giáo viên góp ý bổ sung cho câu hỏi phân tích và trả lời phân tích, trình chiếu bài giải tham khảo trên bảng (Slides5).
Sau đó hướng dẫn HS nhấn phím F3 tạo tệp bai1.inp, nhập dữ liệu theo đề bài, lưu lại. Quay lại chương trình, chạy chương trình, rồi mở tệp bai1.out cho học sinh thấy kết quả (quá trình này có thể quan sát trên (Slides6). 
 - Yêu cầu học sinh hoàn thiện chương trình trên máy. Giáo viên tiếp cận từng học sinh để sửa lỗi cần thiết.
- Học sinh mở sách giáo khoa, bài tập thực hành 3 trang 64 ra xem lại chương trình đã học và thực hành. Ghi nội dung Bài tập 1 vào vở.
- Mỗi nhóm suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học về tệp (được GV ôn lại thông qua kiểm tra bài cũ và nội dung chính cũng đã viết lên góc bảng) điền vào những chỗ giáo viên gợi ý cách làm trên bảng.
- HS ở các nhóm khác nhau đứng tại chỗ trả lời, các nhóm còn lại có thể phát hiện và giải quyết vấn đề tốt hơn
- Đại diện một số nhóm trả lời và giải thích.
- HS quan sát, so sánh bài giải tham khảo trên bảng, cách tạo tệp bai1.inp, nhập dữ liệu theo đề bài, lưu lại. Quay lại chương trình

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bai_tap_thuc_hanh_va_chuan_bi_cho_tiet_hoc_theo.doc