SKKN Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí “Người lái đò sông đà” và “ai đã đặt tên cho dòng sông” theo chủ đề tích hợp

SKKN Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí “Người lái đò sông đà” và “ai đã đặt tên cho dòng sông” theo chủ đề tích hợp

Dạy học theo chủ đề tích hợp và vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình huống thực tiễn là phương pháp dạy học hiện đại, đóng vai trò quan trọng trong việc cải cách chương trình sách giáo khoa ở nước ta. Đây cũng là vấn đề được các cấp quản lí giáo dục quan tâm chỉ đạo trong thời gian qua nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở các bậc học.

Với sự kết hợp các nội dung kiến thức từ các môn học, các lĩnh vực học tập khác nhau vào nội dung một bài học, cùng sự phối hợp các tri thức có quan hệ mật thiết gần gũi với nhau trong thực tiễn để tạo nên một khối kiến thức tổng hợp, các tiết dạy theo chủ đề tích hợp, vận dụng kiến thức liên môn bước đầu đã mang lại cho học sinh sự hứng thú trong học tập, phát huy được tính tích cực, sáng tạo.

Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều giáo viên, mức độ áp dụng trong dạy học chủ yếu mới dừng lại ở việc lồng ghép, đưa thêm nội dung cần học tương tự với môn học chính như: lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật vào các bộ môn giáo dục công dân, ngữ văn, địa lý chứ chưa vận dụng được nhiều kiến thức của các phân môn và lĩnh vực khác nhau. Nhiều giáo viên còn mơ hồ, lúng túng trong việc thiết kế bài dạy các chủ đề tích hợp.

Từ thực tế nêu trên, với nhận thức và khả năng của bản thân, tôi mạnh dạn đề xuất: “Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? theo chủ đề tích hợp”.

 

doc 19 trang thuychi01 7681
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí “Người lái đò sông đà” và “ai đã đặt tên cho dòng sông” theo chủ đề tích hợp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT CÁCH THIẾT KẾ BÀI DẠY HAI VĂN BẢN KÍ “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” VÀ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP
	Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuấn Anh
	Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
	SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2018
MỘT CÁCH THIẾT KẾ BÀI DẠY HAI VĂN BẢN KÍ “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” VÀ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Dạy học theo chủ đề tích hợp và vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình huống thực tiễn là phương pháp dạy học hiện đại, đóng vai trò quan trọng trong việc cải cách chương trình sách giáo khoa ở nước ta. Đây cũng là vấn đề được các cấp quản lí giáo dục quan tâm chỉ đạo trong thời gian qua nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở các bậc học. 
Với sự kết hợp các nội dung kiến thức từ các môn học, các lĩnh vực học tập khác nhau vào nội dung một bài học, cùng sự phối hợp các tri thức có quan hệ mật thiết gần gũi với nhau trong thực tiễn để tạo nên một khối kiến thức tổng hợp, các tiết dạy theo chủ đề tích hợp, vận dụng kiến thức liên môn bước đầu đã mang lại cho học sinh sự hứng thú trong học tập, phát huy được tính tích cực, sáng tạo.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều giáo viên, mức độ áp dụng trong dạy học chủ yếu mới dừng lại ở việc lồng ghép, đưa thêm nội dung cần học tương tự với môn học chính như: lồng ghép giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật vào các bộ môn giáo dục công dân, ngữ văn, địa lý chứ chưa vận dụng được nhiều kiến thức của các phân môn và lĩnh vực khác nhau. Nhiều giáo viên còn mơ hồ, lúng túng trong việc thiết kế bài dạy các chủ đề tích hợp.
Từ thực tế nêu trên, với nhận thức và khả năng của bản thân, tôi mạnh dạn đề xuất: “Một cách thiết kế bài dạy hai văn bản kí Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? theo chủ đề tích hợp”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
- Cụ thể hóa các vấn đề lý luận về dạy học theo chủ đề tích hợp thông qua một thiết kế bài dạy.
- Giúp cho học sinh và đồng nghiệp thấy được tầm quan trọng của dạy học môn Ngữ văn theo chủ đề tích hợp hướng đến việc phát triển năng lực người học.
- Chuẩn bị tốt nhất về kiến thức lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới chương trình giáo dục trong những năm tới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Lý luận về dạy học theo chủ đề tích hợp phát triển năng lực người học
- Chuẩn kiến thức kĩ năng bài dạy hai văn bản Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông.
- Sự thay đổi trong nhận thức và kĩ năng của học sinh sau khi được học chủ đề tích hợp về hai văn bản kí.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, biên soạn chuyên đề dạy học
- Dạy học thực nghiệm, so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng chuyên đề.
- Rút ra kinh nghiệm, bổ sung vào chuyên đề
2. Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận
- Thế nào là dạy học theo chủ đề?
“Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề, có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.”(1)
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn.
Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn đề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Các em thu thập thông tin từ nhiều nguồn kiến thức.
Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiêu kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý trực tiếp học sinh làm việc.
Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển, nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.
Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ không phải là phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy 
(1) Dạy học theo chủ đề với chủ trương đổi mới giáo dục hiện nay (nguồn Haiduong.edu.vn)
học theo chủ đề, chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp nào là phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp với nó.
Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá trình tích hợp nội dung (đơn môn hoặc liên môn) trong quá trình dạy.
- Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay.
Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập khiễng bởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những ưu thế hoặc những hạn chế riêng có.
Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội dung kiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để việc học tập phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạng của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vận dụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung chương trình dạy luôn được cập nhật trước sự bùng nổ vũ bão của thông tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sự là thế giới mới cho những người học?  
Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô hình dạy học trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi thế nhất định của từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.
- Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến một giải pháp làm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình là:
Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình bùng nổ thông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học của người học.
Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để thực hiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học sinh sau quá trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong phú vốn rất cần cho người học hiện nay?
Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định hướng hình thành NĂNG LỰC cho học sinh.
Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới.
2.2 Thực trạng của vấn đề
Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây dựng chủ đề, bao gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ đề chỉ là những gợi mở, tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên trực tiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có tính khả dụng.
Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào xây dựng chủ đề cần nắm vững những điểm sau:
Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó cho học sinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở có thể thay đổi tùy vào trình độ của học sinh.
Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan đến ít nhất kiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn hoặc hai bộ môn trở lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử dụng chính các phương pháp tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề (phương pháp dự án, thảo luận). Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực khi khai thác chủ đề.
Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả lời cho câu hỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?
Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng chủ đề dạy học có thể là:
Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy);
Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống).
Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề.
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một chủ đề dạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại (cách phân loại này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ đơn giản hay phức tạp của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng lực cụ thể của học sinh).
Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong chương trình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích hợp. Có thể dạy trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có thể tại lớp, sân trường khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động thực hành, trải nghiệm, xưởng sản xuất, đi thực tế, tham quan) .
Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
2.3 Giải pháp
Đề xuất một thiết kế bài dạy cụ thể theo chủ đề tích hợp:
THỂ KÍ VÀ VIỆC VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢNG DẠY 2 ĐOẠN TRÍCH VĂN BẢN:
- NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)
- AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? (HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức:
- Cảm nhận được vẻ đẹp đa dạng của 2 dòng sông: sông Đà và sông Hương.
- Thấy được vẻ đẹp của con người lao động trên dòng sông Đà
- Vẻ đẹp văn hóa xứ Huế gắn liền với dòng sông Hương
- Cái tôi tài hoa, uyên bác, trữ tình, say đắm của 2 nhà văn 
- Vẻ đẹp nghệ thuật của hai thiên tùy bút.
2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu văn bản kí theo đặc trưng thể loại. Biết vận dụng kiến thức tổng hợp từ nhiều bộ môn, lĩnh vực trong việc tiếp nhận văn bản kí.
- Năng lực quan sát, liên tưởng, miêu tả các hiện tượng tự nhiên, đời sống thực hiện các yêu cầu thiết thực trong cuộc sống: thuyết minh, giới thiệu về các thắng cảnh, văn hóa, phong tục
3. Thái độ:
- Hiểu biết, yêu mến cảnh đẹp quê hương đất nước.
- Trân trọng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ.
4. Các năng lực hướng tới:
- Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ
- Năng lực chuyên biệt: Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên:
- Đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, thiết kế bài dạy
- Tìm kiếm thông tin liên quan đến bài học từ một số môn học, lĩnh vực khác:
+ Bản đồ sông Đà, sông Hương ở môn Địa lí
+ Các trích đoạn video lấy từ các bộ phim kí sự về sông Đà và sông Hương đã phát trên đài truyền hình
+ Tranh ảnh, máy chiếu.
2. Học sinh:
- Đọc văn bản, tài liệu và soạn bài; chuẩn bị bảng phụ, giấy A0, bút dạ
- Tìm kiếm thông tin về bài học từ các môn học, lĩnh vực khác: bản đồ, tranh ảnh, video.
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC
1. Phương pháp:
- Nêu vấn đề, thảo luận nhóm, thuyết trình. 
(Chia lớp thành 4 nhóm học tập, kê bàn theo nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí)
2. Kĩ thuật dạy học:
- Trình bày 1 phút, bản đồ tư duy
IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
TIẾT 1
Hoạt động 1: Hoạt động trải nghiệm:
1. Mục tiêu: 
- Huy động vốn kiến thức, kĩ năng đã học để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức kĩ năng mới.
- Tạo hứng thú bước vào bài học mới.
2. Cách thức: Trò chơi giải ô chữ.
N
G
U
Y
Ễ
N
T
U
Â
N
T
Ù
Y
B
Ú
T
S
Ô
N
G
Đ
À
T
H
Ừ
A
T
H
I
Ê
N
H
U
Ế
S
Ô
N
G
H
Ư
Ơ
N
G
H
O
À
N
G
P
H
Ủ
N
G
Ọ
C
T
Ư
Ờ
N
G
Câu 1: Nhà văn nào được mệnh danh là “Người nghệ sĩ suốt đời đi tìm và tôn thờ cái đẹp”?
TL: Nguyễn Tuân
Câu 2: Ngoài truyện ngắn Nguyễn Tuân còn có sở trường ở thể loại văn học nào?
TL: Tùy bút
Câu 3: Nhà máy thủy điện Hòa Bình được xây dựng trên dòng sông nào?
TL: Sông Đà
Câu 4: Châu Hóa là tên gọi cũ của tỉnh thành nào hiện nay?
TL: Thừa Thiên Huế
Câu 5: Con sông dùng dằng con sông không chảy
	 Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Hai câu thơ trên viết về dòng sông nào?
TL: Sông Hương.
Câu 6: Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét về ai “là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”?
TL: Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Từ các ô chữ GV dẫn vào bài mới.
Hoạt động 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới
Mục đích: giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức mới qua hệ thồng câu hỏi, bài tập/nhiệm vụ.
Phương pháp, kĩ thuật: Nêu vấn đề, đặt câu hỏi, thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư duy, thuyết trình.
I. Tiểu dẫn:
(Phương pháp, cách thức: Giáo viên đặt câu hỏi, HS làm việc độc lập dựa trên sự chuẩn bị bài ở nhà)
1. Về tác giả:
Câu hỏi: Nguyễn Tuân là nhà văn đã được học ở chương trình Ngữ văn 11, Hoàng phủ Ngọc Tường là nhà văn mới. Hãy dựa vào kiến thức đã học và kiến thức tự tìm hiểu, giới thiệu những nét cơ bản về 2 nhà văn trong sự đối sánh. 
Nội dung cần đạt được:
a. Nguyễn Tuân:
- Nhà văn đã thành công từ trước cách mạng và tiếp tục khẳng định tài năng sau cách mạng.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác, thích “xê dịch”, yêu cái đẹp.
- Sở trường: truyện ngắn và tùy bút.
b. Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và sau 1975.
- Phong cách nghệ thuật: tài hoa, uyên bác, kết hợp giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, đặc biệt lối hành văn mê đắm và tài hoa.
- Sở trường: bút kí
- Gắn bó và yêu Huế bằng tình yêu sâu nặng.
=> hai nhà văn không cùng thời nhưng có những nét tương đồng trong tài năng và sở trường.
2. Về tác phẩm và thể loại:
a. Xuất xứ tác phẩm:
Cau hỏi: Em hãy giới thiệu về xuất xứ hai bài kí?
Nội dung cần đạt:
- Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), là thành quả nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau nhiều chuyến đi đến Tây Bắc trong những năm 1958- 1960. Ấn tượng về thiên nhiên và con người Tây Bắc là nguồn cảm hứng chủ yếu để Nguyễn Tuân viết tập tùy bút. (1)
- Ai đã đặt tên cho dòng sông in trong tập bút kí cùng tên (1986). Bài kí được sáng tác vào mùa xuân năm 1981 tại Huế.
Câu hỏi: Qua tìm hiểu, tham khảo tài liệu em hãy giới thiệu về thể loại tùy bút và bút kí?
Nội dung cần đạt:
- Tùy bút và bút kí là 2 trong số nhiều tiểu loại của thể kí văn học
- Hai thể loại này ít nhiều có sự khác biệt (trong định nghĩa) nhưng có nhiều điểm chung:
+ Ghi chép về người thật việc thật (đòi hỏi sự trung thực và chính xác, người viết phải am hiểu tường tận về đối tượng phản ánh).
+ Sử dụng tài quan sát, óc liên tưởng và khả năng sử dụng ngôn ngữ để miêu tả đối tượng một cách sống động và lôi cuốn nhất.
+ Qua đối tượng phản ánh nhà văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình -> Cái tôi tác giả
+ Cách viết tương đối tự do phóng túng (nghiêng về tùy bút).
- Trên thực tế sáng tác, ranh giới giữa hai thể loại không rõ ràng, có khi ảnh hưởng qua lại:
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân: giàu tri thức, thông tin khoa học -> đậm chất kí
+ Bút kí của Hoàng phủ Ngọc Tường: lối viết phóng khoáng, tài hoa -> chất tùy bút.
=> hai văn bản khác nhau trong cách gọi tên nhưng thực tế gần gũi nhau về đặc điểm thể loại, vì vậy có những nét tương đồng trong cách tìm hiểu, khai thác văn bản.
II. Đọc hiểu văn bản
Hoạt động đọc: 
- Hai văn bản dài, Gv hướng dẫn học sinh tự đọc văn bản ở nhà và tìm hiểu các nội dung thông tin từ văn bản.
- Tuy nhiên cũng dành thời gian hướng dẫn HS diễn cảm trên lớp để cảm nhận về hành văn cũng như cảm xúc của tác giả.
- Lựa chon 2 đoạn tiêu biểu từ 2 văn bản và gọi 2 học sinh đọc trước lớp
+ Đoạn 1: Người lái đò sông Đà: từ đầu đoạn trích đến ... “cái gậy đánh phèn”
+ Đoạn 2: Ai đã đặt tên cho dòng sông: từ đầu đến.... “bát ngát tiếng gà”.
- Nhận xét và sửa cách đọc cho HS (nếu cần thiết)
- Chiếu 2 đoạn video lấy từ 2 bộ phim tài liệu về sông Đà và sông Hương. 
+ Yêu cầu HS nhận xét về hình ảnh thực của hai dòng sông với hình ảnh hiện lên qua trang viết của hai nhà văn.
+ Định hướng: Hình ảnh hai dòng sông trên trang viết sống động, có hồn và ấn tượng hơn hình ảnh thực
1. Tìm hiểu chung:
a. Về bố cục:
Câu hỏi: Đọc kĩ và tìm hiểu bố cục từng văn bản? Xác định nội dung từng phần đã phân chia.
Nội dung cần đạt:
- Người lái đò sông Đà: chia 2 phần:
+ Phần 1: từ đầu đến... “dòng nước sông Đà”: Sông Đà hùng vĩ, dữ dội và cuộc vượt thác của ông lái đò.
+ Phần 2: còn lại: Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông: chia 2 phần
+ Phần 1: từ đầu đến... “quê hương xứ sở”: thủy trình sông Hương từ thượng nguồn ra bể.
+ Phần 2: còn lại: Sông Hương với lịch sử và thi ca.
b. Hình tượng nghệ thuật:
Câu hỏi: Xác định những hình tượng nghệ thuật dược khắc họa trong 2 đoạn trích văn bản?
Nội dung cần đạt:
- VB1: Dòng sông Đà và Người lái đò
- VB 2: Sông Hương.
- Cả 2 VB: cái tôi nhà văn.
c. Cảm xúc chủ đạo: 
Câu hỏi: 2 bài kí được các nhà văn viết bằng cảm xúc nào là chủ yếu?
Cần đạt: Niềm say mê kiếm tìm cái đẹp và lòng yêu mến, tự hào, trân trọng trước cái đẹp.
TIẾT 2
2. Tìm hiểu chi tiết:
2.1. Vẻ đẹp thiên nhiên qua hình tượng những dòng sông:
a. Hình tượng sông Đà:
a.1. Sông Đà hùng vĩ, dữ dội:
Câu hỏi: Để khắc họa hình ảnh sông Đà hùng vĩ, dữ dội Nguyễn Tuân tập trung miêu tả những cảnh tượng nào? Các thủ pháp nghệ thuật nào được sử dụng chủ yếu trong quá trình miêu tả?
Cách thức tổ chức dạy học: HS làm việc theo nhóm với các nhiệm vụ được giao cụ thể:
Nhóm 1: Tìm hiểu về cảnh đá bờ sông Đà
Nhóm 2: Tìm hiểu về cảnh mặt ghềnh Hát Loóng
Nhóm 3: Tìm hiểu về cảnh những cái hút nước
Nhóm 4: tìm hiểu về cảnh thác đá sông Đà.
(Thời gian thảo luận và ghi bảng phụ là 3 phút, nhóm trưởng trình bày trước lớp 1 phút) 
Giáo viên nhận xét về phần thảo luận và trình bày của từng nhóm, bổ sung nếu thấy cần thiết.
Đánh giá, tiểu kết về sông Đà hùng vĩ, dữ dội:
Câu hỏi: Từ 4 cảnh tượng vừa tìm hiểu em có nhận xét gì về hình ảnh sông Đà, về tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
Nội dung cần đạt: 
- Sông Đà, dòng chảy vô tri đã được làm sống dậy trở thành một thủy quái khổng lồ dữ dội, hung bạo có tâm trạng, tính cách, mưu mô...
- Quan sát tỉ mỉ, liên tưởng phong phú, am hiểu về nhiều lĩnh vực, ngôn ngữ giàu có, thủ pháp so sánh và nhân hóa dày đặc 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_cach_thiet_ke_bai_day_hai_van_ban_ki_nguoi_lai_do_s.doc