SKKN Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy Chuyên đề Truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII
Sứ mệnh của môn học Lịch sử trong trường phổ thông rất quan trọng, không chỉ trang bị cho các em học sinh vốn kiến thức lịch sử của dân tộc và tìm hiểu lịch sử thế giới mà còn góp phần to lớn trong việc phát triển các năng lực, xây dựng niềm tin, lòng tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, hình thành nhân cách và bản lĩnh con người Việt Nam để xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Đối với trường THPT chuyên, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cấp quốc gia là mục tiêu mũi nhọn, từ đó vừa phải phát triển năng khiếu về môn học, để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử.
Muốn đạt được những yêu cầu trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà còn phải là sự chuyên sâu về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ thầy, cô giáo dạy chuyên bộ môn lịch sử mà công việc đó được thể hiện rõ nhất trong việc dạy các chuyên đề chuyên sâu.
Tuy nhiên, hệ thống chuyên đề trong giảng dạy chuyên môn Lịch sử thường được các giáo viên xây dựng thành hai mảng: Chuyên đề Lịch sử thế giới và Chuyên đề Lịch sử Việt Nam. Song số lượng, nội dung các chuyên đề như thế nào, chất lượng ra sao đều chưa được xây dựng hay quy định theo những tiêu chuẩn chung nhất định mà hầu hết đều do các giáo viên hoặc tổ bộ môn tại các trường THPT Chuyên của các tỉnh trực tiếp và tự lực xây dựng theo vốn kiến thức cũng như kinh nghiệm đứng lớp, lãnh đội của mình.
I. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Sứ mệnh của môn học Lịch sử trong trường phổ thông rất quan trọng, không chỉ trang bị cho các em học sinh vốn kiến thức lịch sử của dân tộc và tìm hiểu lịch sử thế giới mà còn góp phần to lớn trong việc phát triển các năng lực, xây dựng niềm tin, lòng tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, hình thành nhân cách và bản lĩnh con người Việt Nam để xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Đối với trường THPT chuyên, mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử cấp quốc gia là mục tiêu mũi nhọn, từ đó vừa phải phát triển năng khiếu về môn học, để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài năng thực sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử. Muốn đạt được những yêu cầu trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà còn phải là sự chuyên sâu về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ thầy, cô giáo dạy chuyên bộ môn lịch sử mà công việc đó được thể hiện rõ nhất trong việc dạy các chuyên đề chuyên sâu. Tuy nhiên, hệ thống chuyên đề trong giảng dạy chuyên môn Lịch sử thường được các giáo viên xây dựng thành hai mảng: Chuyên đề Lịch sử thế giới và Chuyên đề Lịch sử Việt Nam. Song số lượng, nội dung các chuyên đề như thế nào, chất lượng ra sao đều chưa được xây dựng hay quy định theo những tiêu chuẩn chung nhất định mà hầu hết đều do các giáo viên hoặc tổ bộ môn tại các trường THPT Chuyên của các tỉnh trực tiếp và tự lực xây dựng theo vốn kiến thức cũng như kinh nghiệm đứng lớp, lãnh đội của mình. Đồng thời, theo ý kiến cá nhân tôi nhận thấy do cấu trúc đề thi, tỉ lệ điểm trong đề thi cũng như do quỹ thời gian, nguồn tư liệu hạn chế, nội dung phức tạp mà hầu hết các chuyên đề Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII chưa được đầu tư kĩ lưỡng và xứng tầm. Trong chương trình Lịch sử áp dụng cho lớp 10 chuyên sử, ở học kỳ II phân phối chương trình tiết 74 đến tiết 78 có Chuyên đề Truyền thống chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ Quốc của nhân dân Việt Nam từ cuối thế kỉ X đến cuối thế kỉ XVIII. Đây là một nội dung quan trọng trong tiến trình Lịch sử Việt Nam, bao gồm nhiều kiến thức khó và có mối liên quan chặt chẽ, logic, có tác động tới tiến trình phát triển của Lịch sử Việt Nam và để lại nhiều bài học cho công cuộc dựng nước và giữ nước trong giai đoạn hiện nay. Hơn thế nữa, nội dung chuyên đề được sách giáo khoa phản ánh ở hết sức đơn giản ở chương trình lớp 10 nên học sinh khó có sự tiếp nhận kiến thức được sâu sắc nếu không có phương pháp học tập tốt. Và trong các đề thi Olimpic, thi học sinh giỏi các cấp của các tỉnh thành cũng như ở cấp quốc gia, tần suất xuất hiện của các câu hỏi trong phạm vi nội dung lịch sử này cũngkhá thường xuyên. Từ thực trạng trên và qua quá trình giảng dạy thực tiễn, tôi chọn vấn đề “Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là: - Qua chuyên đề, học sinh được ôn tập, củng cố vững chắc mảng kiến thức về công cuộc đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Từ đó, thông hiểu và vận dụng để nắm một số nội dung chuyên sâu mang tính bổ dọc, khái quát vấn đề; đồng thời có được cách đánh giá, nhìn nhận tác động trở lại đối với một số vấn đề lịch sử liên quan trong cùng giai đoạn hay các giai đoạn trước đó và kế tiếp. Do đó, học sinh sẽ nắm vững, hiểu sâu, nhớ lâu cũng như có thể vận dụng linh hoạt hệ thống kiến thức đã học để thực hành các dạng bài tập nâng cao. - Rèn luyện một số kĩ năng học và làm bài thi học sinh giỏi để đạt kết quả cao như kĩ năng hệ thống hóa kiến thức theo sơ đồ, bảng biểu; kĩ năng so sánh, phân tích, tổng hợp các sự kiện, hiện tượng lịch sử Từ đó hình thành kĩ năng làm bài lịch sử, kĩ năng tự học, tự nghiên cứu một số vấn đề lịch sử, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh chuyên sử. - Góp phần nâng cao chất lượng và số lượng giải trong Kỳ thi học sinh giỏi các cấp môn Lịch Sử. - Trao đổi và chia sẻ với các đồng nghiệp ở các trường bạn chút kinh nghiệm ít ỏi của bản thân tôi về việc lựa chọn nội dung và phương pháp bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi khi giảng dạy chuyên đề lịch sử này. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm bao gồm phần kiến thức bổ dọc xuyên suốt về truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Đây là phần kiến thức Lịch sử Việt Nam Trung đại. Nội dung kiến thức này không có sẵn trong một bài học mà là xâu chuỗi các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa của nhân dân ta từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Từ các bài học đó, dưới sự hỗ trợ, định hướng, dẫn dắt của giáo viên, học sinh thấy được truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Hơn nữa, sáng kiến cũng tìm tòi, nghiên cứu các phương pháp giảng dạy phù hợp với mục đích ôn tập đối với phần kiến thức thuộc nội dung chuyên đề. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết, tập trung nghiên cứu chuyên sâu về nội dung chuyên đề Truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, rồi từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy và hệ thống phương pháp bài học để thực hiện mục tiêu bài dạy. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Trước đây, đã có những sáng kiến kinh nghiệm đề cập đến nội dung liên quan đến truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam hoặc trình bày về việc áp dụng hệ thống phương pháp dạy học tích cực cho từng nội dung cụ thể, từng loại kiến thức đặc trưng, theo tổ chức kiến thức khác nhau hoặc cũng là phương pháp ôn tập nhưng áp dụng với phần kiến thức Lịch sử thế giới; song chưa có sáng kiến đề cập về hệ thống phương pháp ôn tập với nội dung chuyên đề mà sáng kiến xác định. Vì vậy, có thể nói điểm mới của sáng kiến là: - Một là, chỉ ra được nội dung cụ thể sẽ giảng dạy chuyên sâu trong chuyên đề Truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (ba nội dung). - Hai là, đưa ra và áp dụng hệ thống phương pháp lý thuyết giúp học sinh nhận thức chuyên sâu về truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (4 phương pháp). - Ba là, trình bày được một số dạng bài tập và câu hỏi chuyên sâu về truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (5 dạng tập). - Bốn là, áp dụng với đối tượng là học sinh lớp chuyên Sử - THPT. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Đặc trưng của dạy học lịch sử ở trường THPT Dạy học nói chung, dạy học lịch sử ở trường THPT nói riêng đều là một quá trình.Trong đó, dạy học lịch sử ở trường THPT là một quá trình nhận thức đặc thù. Ở đó, người giáo viên lịch sử tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập có chủ đích, theo kế hoạch sư phạm khoa học, nhằm giúp học sinh chủ động lĩnh hội các kiến thức lịch sử cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của lịch sử thế giới cũng như lịch sử Việt Nam, hoàn thiện các kĩ năng thực hành bộ môn, từ đó dần hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách của học sinh. Trong quá trình này, học sinh vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình dạy học. Do vậy, người giáo viên cần chú ý đến quá trình nhận thức của học sinh để sử dụng, phối hợp các phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học hiệu quả, và có những nhiệm vụ học tập vừa sức. Quá trình nhận thức của học sinh trong học tập nói chung và học tập bộ môn lịch sử nói riêng đều đi từ tri giác tài liệu học tập đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá, từ đó hình thành khái niệm, rút ra quy luật, bài học. Do vậy, người giáo viên cần tạo hứng thú học tập bộ môn cho học sinh, hình thành cho học sinh khát khao tìm hiểu lịch sử, khám phá những bí ẩn của quá khứ, kích thích nhu cầu tư duy khoa học tự thân của học sinh. Có như vậy, học sinh mới có thể tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, hăng say tìm hiểu đến tận cùng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử - thành công lớn nhất của quá trình dạy học. 2.1.2. Mục tiêu chủa trường THPT chuyên Trong Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường trung học phổ thông chuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ mục tiêu của trường chuyên là “phát hiện những học sinh có tư chất thông minh, đạt kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học và sáng tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”. Như vậy trường THPT chuyên phải đáp ứng yêu cầu phát triển năng khiếu (về một môn khoa học) để tạo nguồn trí thức, nhà khoa học giỏi, nhân tài của đất nước. Nghĩa là: trường THPT chuyên có nhiệm vụ kép vừa giáo dục toàn diện học sinh, vừa bồi dưỡng mũi nhọn để phát huy năng khiếu của các em về một môn học (Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường trung học phổ thông chuyên, Ban hành kèm theo Thông tư số 06/2012/TT-BGDĐT ngày 15/02/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Luật giáo dục đã nhấn mạnh yêu cầu với phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là phải “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Do vậy, người giáo viên lịch sử phải biết phối hợp các hình thức tổ chức dạy học, các phương pháp dạy học tích cực, hướng dẫn các em các kĩ năng học tập bộ môn, đặc biệt phải hướng dẫn học sinh tự học có hiệu quả nhằm bồi dưỡng năng khiếu của các em với bộ môn lịch sử. 2.1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh chuyên Trải qua kì tuyển chọn đầu vào nghiêm túc, khoa học, các em học sinh chuyên đều là những học sinh ưu tú của các trường THCS của địa phương, có niềm đam mê với môn học, khi đặt bút đăng ký vào hệ chuyên của nhà trường. Đây là thuận lợi lớn, vừa đặt ra yêu cầu cao với việc đào tạo toàn diện và mũi nhọn của trường THPT chuyên. Bên cạnh đó, theo tâm lý học lứa tuổi, hoạt động học tập của học sinh THPT có sự thay đổi quan trọng về chất. Khác với học sinh tiểu học, và học sinh THCS – nền tảng tri thức còn mỏng nên các em ham thích thu nhận những kiến thức cơ bản từ thầy cô, học sinh THPT có nền tảng kiến thức dày dạn hơn, các em có khả năng và ham thích hơn trong tư duy trừu tượng và mong muốn độc lập, sáng tạo trong nhận thức. Các em thích khái quát hóa sự vật, hiện tượng thành các khái niệm, quy luật, bài học. Tư duy, lập luận của các em chặt chẽ hơn, nhất quán hơn, tính phê phán trong tư duy cũng phát triển. Đặc biệt, những yếu tố này càng nổi trội, và bộc lộ rõ ràng ở học sinh chuyên. Do vậy, trong quá trình dạy học, người giáo viên cũng cần chú ý đến việc hướng dẫn học sinh khai thác tư liệu gốc, tài liệu tham khảo, đa dạng các hình thức tổ chức dạy học: dạy học tìm hiểu kiến thức mới, dạy học chuyên đề, tự học có hướng dẫn, hội thảo khoa học nhằm phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh chuyên, bồi dưỡng cho các em niềm tin, đam mê khám phá khoa học. Người giáo viên cũng phải chú ý đến tính không đồng nhất về nhận thức, và khả năng tư duy của học sinh để có những nhiệm vụ học tập chung và nhiệm vụ học tập phân hóa trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, lứa tuổi THPT cũng là bản lề trong tính cách của các em, các em không còn là trẻ con, cũng chưa thực sự trở thành người lớn. Có những lúc, các em chưa thực sự chủ động, độc lập trong học tập. Đôi lúc, một số em còn ỷ lại dựa dẫm vào thầy cô, bạn bè. Do vậy, đối với những đối tượng học sinh chưa sớm định hình mục đích, năng lực tự học, người giáo viên cần có sự quan tâm và có các biện pháp sư phạm phù hợp vừa kích thích nhu cầu học tập tự thân vừa hướng dẫn kĩ năng tự học cho nhóm học sinh này. 2.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực Thứ nhất, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu: ”Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học; Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.” Thứ hai, Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực của người học. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học"; "Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi". 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Nội dung chuyên đề thuộc bài Sơ kết phần Lịch sử Việt Nam chương trình sách giáo khoa Lịch Sử lớp 10, nó nằm phần cuối chương trình Lịch sử Việt Nam nên ít được giáo viên quan tâm, chủ trọng. Hơn nữa, trong quá trình dạy, giáo viên thường chú ý nhiều đến việc cung cấp kiến thức mà ít chú trọng đến việc phát triển kĩ năng cho học sinh. Thêm vào đó, một thực trạng của vấn đề học tập các môn nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng của học sinh là hạn chế về quan điểm, nhận thức về bản chất đặc trưng của bộ môn lịch sử. Thông thường học sinh đều cho rằng lịch sử là quá khứ, khô cứng và chỉ là môn học thuộc lòng. Quan điểm này ảnh hưởng rất lớn đến tâm thế và cách thức học tập của các em. Bởi vậy khả năng tư duy, sáng tạo, phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét (hệ thống năng lực nhận thức) của học sinh còn nhiều hạn chế. 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Để giải quyết thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu bài học, dựa trên Phân phối chương trình, Hưỡng dẫn chuẩn kiến thức – kĩ năng bộ môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo để tiến hành lực chọn nội dung giảng dạy. 2.3.1. Lựa chọn nội dung giảng dạy 2.3.1.1. Căn cứ lựa chọn: - Đối tượng học là các học sinh của đội tuyển HSG các cấp đã vượt qua các vòng thi tuyển lựa, đã được cung cấp hệ thống kiến thức nền cơ bản theo chuẩn kiến thức khá vững chắc và có ít nhiều kĩ năng học tập, làm bài tập lịch sử vững vàng. - Nội dung chuyên đề bao gồm nhiều vấn đề phức tạp lại được phản ánh qua một giai đoạn lịch sử tương đối dài và chương trình học chính khóa được phản ánh trong sách giáo khoa chỉ đề cập những vấn đề cơ bản nhất. - Tần suất xuất hiện các câu hỏi yêu cầu huy động nội dung kiến thức trong chuyên đề để giải quyết. 2.3.1.2. Nội dung lựa chọn Trong phạm vi và yêu cầu của một sáng kiến kinh nghiêm, tôi lựa chọn ba nội dung dạy chuyên sâu như sau: Vấn đề 1: Truyền thống đánh giặc của nhân dân Việt Nam thời phong kiến - Khái niệm: Truyền thống của một dân tộc là những gì được hình thành trong cuộc sống, được lặp đi lặp lại trở thành nề nếp, thói quen và chuẩn mực của riêng dân tộc ấy. - Truyền thống dân tộc có ba đặc trưng: tính ổn định, bền vững; tính cộng đồng và tính lưu truyền. Truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam là nét đặc trưng của truyền thống yêu nước của người Việt Nam từ xưa đến nay. - Hoàn cảnh lịch sử: đánh giặc giữ nước là điều hầu hết các dân tộc đều có. Nhưng với Việt Nam thì đánh giặc ngoại xâm là truyền thống đặc trưng tiêu biểu nhất? Vì: xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù: Việt Nam là một nước nhỏ nhưng có vị trí chiến lược quan trọng;Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú với nhiều sản vật đặc trưng và nguồn nhân công dồi dào... Cho nên Việt Nam từ cổ - trung – cận – hiện đều bị các nước đế quốc hùng mạnh nhòm ngó xâm lược. Dân tộc Việt Nam luôn phải đánh và đánh thắng những thế lực xâm lược hùng mạnh nhất của thời đại bằng sức mạnh tổng hợp của truyền thống yêu nước, truyền thống đánh giặc ngoại xâm. Đây cũng chính là nhân tố đảm bảo điều kiện độc lập, thống nhất lâu dài. Vấn đề 2: Biểu hiện của truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII Biểu hiện của truyền thống được thể hiện qua các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa của nhân dân ta: - Kháng chiến chống Tống Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê (năm 981) Kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 - 1077) - Ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên ở thế kỷ XIII Đầu năm 1258 Năm 1285 Năm 1287 – 1288 - Khởi nghĩa Lam Sơn với diễn biến chính trải qua ba giai đoạn và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi Hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418- 1423) Tiến vào Nam (1424 - 1425) Giải phóng Đông Quan (1426 – 1427) Cáo Bình Ngô được coi là bản khải hoàn ca, bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền dân tộc Việt, đè bẹp ý chí và hành động xâm lược của nhà Minh. Mở ra một thời kỳ phát triển mới trong lịch sử thời phong kiến dân tộc độc lập – thời Lê sơ. - Phong trào nông dân Tây Sơn với sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỷ XVIII Kháng chiến chống Xiêm (1785) Kháng chiến chống Thanh (1789) Vấnđề 3: Bài học từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII 1. Luôn chủ động phòng ngự một cách tích cực. Trong một số trường hợp cụ thể: Cách phòng ngự tốt nhất là phản công. 2. Phải tích cực chủ động phòng thủ và tận dụng yếu tố địa lợi trong chiến tranh – xây dựng phòng tuyến chặn giặc – phòng thủ trong thế tiến công. 3. Phát huy vai trò của nhân tố tinh thần trong chiến tranh hay còn gọi là nghệ thuật tâm công khiến cho tinh thần dân tộc lên cao còn kẻ thù suy sụp. 4. Phải phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc (sử dụng nhiều lực lượng và đánh ở nhiều mũi...) 5. Phải hết sức linh hoạt (kiên quyết, mềm dẻo), tỉnh táo và thông minh trong việc lựa chọn cách kết thúc chiến tranh để tạo điều kiện cho việc thiết lập quan hệ, giữ hòa bìnhlâu dài (ngay cả khi ta đã và đang thắng lớn)... 2.3.2. Một số phương pháp hướng dẫn học sinh ôn tập chuyên đề 2.3.2.1. Căn cứ lựa chọn: - Đối tượng học là các học sinh giỏi của đội tuyển Lịch sử, đã được cung cấp hệ thống kiến thức nền cơ bản theo chuẩn kiến thức khá vững chắc và có ít nhiều kĩ năng học tập, làm bài tập lịch sử vững vàng. - Cấu trúc đề thi HSG các cấp - Tần suất xuất hiện các câu hỏi yêu cầu huy động nội dung kiến thức trong chuyên đề để giải quyết. 2.3.2.2. Một số phương pháp giảng dạy cơ bản Trong phạm vi và yêu cầu của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi lựa chọn bốn phương pháp cơ bản như sau: Phương pháp 1: Lập bảng niên biểu gắn với các sự kiện - Các em có thể lập bảng niên biểu ngắn gọn, chia thành các cột thời gian, sự kiện, nội dung hoặc diễn biến vắn tắt trong một bài học lịch sử. - Lập bảng niên biểu có tác dụng hệ thống hóa kiến thức bài học một cách nhanh và ngắn gọn nhất. Từ đó các em nắm được nội dung bài học và thuộc bài lâu hơn. Phương pháp 2: Vẽ sơ đồ tia Muốn vẽ sơ đồ tia, trước hết các em cần nắm được nội dung kiến thức của bài, sau đó cụ thể hóa bằng cách phân ra các ý theo hình tia. Trên cơ sở các nhánh tia chính đó, phân ra các tia để cụ th
Tài liệu đính kèm:
- skkn_lua_chon_noi_dung_va_phuong_phap_on_tap_cho_hoc_sinh_gi.doc
- Bia SKKN Ha.doc
- Muc luc.doc